2.10.14

36th Thư gởi quân đội nhân dân.

*** Thư số 36 gởi: Người Lính Quân Đội Nhân Dân Việt Nam Phạm Bá Hoa ****** Tôi chào đời năm 1930, vào quân đội Việt Nam Cộng Hòa năm 1954, chống lại cuộc chiến tranh do nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa gây ra. Trong bang giao quốc tế, quốc gia này đánh chiếm quốc gia kia, không có tên gọi nào khác ngoài hai chữ “xâm lăng”. Sau ngày 30/4/1975, lãnh đạo cộng sản Việt Nam với lòng thù hận đã đày đọa chúng tôi trong hơn 200 trại tập trung mà họ gọi là trại cải tạo, hằng trăm Bạn tôi đến 17 năm, riêng tôi là 12 năm 3 tháng. Tuy tên Quốc Gia và Quân Lực mà tôi phục vụ không còn nữa, nhưng linh hồn trong quốc kỳ nền vàng ba sọc đỏ vẫn nguyên vẹn trong tôi. Tôi không hận thù lãnh đạo Các Anh, nhưng tôi không bao giờ quên quá khứ đau thương tàn bạo mà họ gây ra cho Tổ Quốc, cho Dân Tộc, trong đó có Các Anh và gia đình Các Anh! Vì vậy mà tôi chưa bao giờ, và sẽ không bao giờ về Việt Nam cho đến khi quê hương cội nguồn của tôi có một chế độ dân chủ tự do thật sự. Các Anh là Người Lính Quân Đội Nhân Dân Việt Nam. Xin gọi Người Lính Quân Đội Nhân Dân ngắn gọn là “Các Anh” để tiện trình bày. Chữ “Các Anh” viết hoa mà tôi sử dụng ở đây, bao gồm từ người lính đến các cấp chỉ huy, ngoại trừ lãnh đạo cấp Sư Đoàn, Quân Đoàn, Quân Chủng, Bộ Tổng Tham Mưu, và Bộ Quốc Phòng. Là Người Lính trong quân đội “Nhân Dân”, Các Anh phải có trách nhiệm bảo vệ Tổ Quốc Nhân Dân, vì Tổ Quốc với Nhân Dân là trường tồn, trong khi đảng cộng sản hay bất cứ đảng nào cầm quyền cũng chỉ một giai đoạn của lịch sử, và nội dung tôi gởi đến Các Anh được đặt trên căn bản đó. Với thư này, tôi tổng hợp một số bản tin trong nước lẫn hải ngoại, giúp Các Anh nhận ra số công nhân Trung Hoa lục địa mà tôi gọi là công nhân Trung Cộng trên đất Việt Nam, và thử ước tính mức độ nguy hại của họ trong trường hợp tình hình căng thẳng, thậm chí là xung đột giữa hai nước Việt - Trung. Thứ nhất. 10 dự án do Trung Cộng xây dựng. Tháng 4/2014, Viện Nghiên Cứu Cơ Khí thuộc Bộ Công Thương công bố thống kê, theo đó thì Trung Cộng đang xây dựng 15 (trong số 20) công trình nhiệt điện. Ngoài ra, còn có 24 công trình xi măng, nhưng tài liệu không nói rõ con số mà chỉ nói Trung Cộng là tổng thầu. Một tài liệu của Ủy Ban Tài Chánh và Ngân Sách Quốc Hội công bố năm 2011, theo đó thì tính đến cuối năm 2010, có đến 90% các dự án tổng thầu theo hình thức EPC về dầu khí, hóa chất, điện, và dệt kim, do nhà thầu Trung Cộng trúng thầu. Trong số đó có 30 dự án trọng điểm quốc gia, mà những dự án điện lực trị giá hằng tỷ mỹ kim. Dưới đây là 10 dự án lớn tại Việt Nam, do nhà thầu Trung Cộng thực hiện: 1. Đường sắt đô thị Cát Linh- Hà Đông. Đây là đường sắt đô thị đầu tiên ở Việt Nam với số vốn đầu tư 552 triệu mỹ kim (MK). Thời gian xây dựng từ tháng 8/2008 đến tháng 11/2013, nhưng chậm trễ phải đến cuối năm 2015 mới xong, trong khi số vốn phải tăng thêm 339 triệu MK, hay là tăng 63%. 2. Xa lộ Hà Nội - Hải Phòng dài 105 cây số, với vốn đầu tư 25.000 tỷ đồng. Khởi công năm 2008 và dự trù hoàn thành vào tháng 10/2015. Nhưng chậm trễ, và nhà thầu không trả lời về thời gian đưa vào sử dụng. 3. Xa lộ Nội Bài - Lào Cai dài 245 cây số, ngang qua Hà Nội và các tỉnh Vĩnh Phúc, Phú Thọ, Yên Bái, Lào Cai, với vốn đầu tư là 20.000 tỷ đồng. Khởi công từ tháng 9/2009, dự trù đưa vào sử dụng vào cuối tháng 6/2014. Nhưng chậm trễ khoảng 2 năm, . 4. Bô xít Tây Nguyên. Ngày 1/11/2007, Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng ký quyết định số 167 phê duyệt thăm dò, khai thác, chế biến quặng bô xít trong thời gian 2007-2015, có xét đến năm 2025. Ngày 8/5/2009, Báo Financial Times cho rằng “dự án này nói lên tính phụ thuộc của Việt Nam đối với Trung Quốc, và dự án này là một món quà của Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng khi triều kiến Trung Quốc”. Ngày 18/5/2009, Giáo sư Nguyễn Huệ Chi và hơn 150 trí thức Việt Nam, đã ký vào bản kiến nghị kêu gọi đảng Cộng sản và chánh phủ dừng dự án khai thác bauxite ở Tây Nguyên. Ngày 09/10/2010, bà Nguyễn Thị Bình, nguyên phó chủ tịch nước, cùng nhiều cựu lãnh đạo cấp cao và nhiều nhân sĩ, đã đồng loạt ký đơn thỉnh nguyện gởi Bộ Chính Trị, Thủ Tướng, và Chủ Tịch Quốc Hội, yêu cầu ngưng ngay dự án Boxit Tây Nguyên. Đơn thỉnh nguyện này lần lượt có chữ ký của 2000 vị cựu lãnh đạo và trí thức. Tổ hợp bô xít Tây Nguyên gồm hai dự án Tân Rai và Nhân Cơ, do Tập đoàn Công nghiệp Than khoáng sản VN làm chủ đầu tư, và nhà thầu Chalieco của Trung Cộng là đơn vị tổng thầu. Nhà máy Tân Rai khởi công năm 2008, và nhà máy Nhân Cơ khởi công năm 2010. Nhà máy Tân Rai hoạt động từ tháng 9/2013, dự trù trong 3 năm đẩu lỗ khoảng 460 tỷ đồng, trong khi nhà máy Nhân Cơ sẽ lỗ khoảng 3.000 tỷ đồng trong 6 năm đầu. 5. Nhà máy gang thép Lào Cai. Khởi công tháng 4/2008, do Công ty TNHH Khoáng sản & Luyện Kim Việt-Trung làm chủ đầu tư, và Công ty TNHH Côn Minh Trung Cộng trúng thầu. Dự trù khai thác qua 3 giai đoạn tính chung từ năm 2008 đến 2015, nhưng năm 2012 bắt đầu trì trệ vì một nhà thầu phụ cũng của Trung Cộng đã bỏ trốn sau khi nhận tiền hợp đồng, để lại khoản nợ cho Việt Nam là 5.000 tỷ đồng. Điều lạ là nhà tổng thầu không chịu trách nhiệm. 6. Nhà máy nhiệt điện Duyên Hải 1 tại Trà Vinh, do EVN làm chủ đầu tư. Công trình dự trù góp phần phát triển điện lực toàn quốc trong giai đoạn 2006 - 2015 , xét đến năm 2025 và được Thủ Tướng phê duyệt. Tổng vốn đầu tư dự án gần 1 tỷ 600 triệu mỹ kim. Trong số vốn này có đến 85% là vốn vay của Ngân Hàng Xuất Nhập khẩu Trung Cộng. Dự án do nhà thầu Trung Cộng Dongfang Electric Corporation Ltd. (DEC) làm tổng thầu EPC. Khởi công năm 2010, và dự trù vận hành vào tháng 11/2014. Có thể không chậm trễ. 7. Nhiệt điện Mông Dương 2 tỉnh Quảng Ninh với vốn đầu tư khoảng 1 tỷ mỹ kim..Thời gian khởi công năm 2011, dự trù hoàn tất năm 2015. Sau 25 năm khai thác, sẽ giao cho Việt Nam. Dự án này vừa tăng thêm 550 triệu mỹ kim, hay là 55%. Dự án do Tập đoàn Posco Power và tập đoàn đầu tư Trung Cộng thực hiện. 8. Nhà máy thủy điện sông Bung 4 tỉnh Quảng Nam, do Công ty cổ phần tư vấn Xây Dựng Điện 1 (thuộc EVN), và nhà thầu Trung Cộng thực hiện. Khởi công từ tháng 6/2010, dự trù hoàn thành vào năm 2015. Cuối năm 2013, do đưa công nhân Trung Cộng vào Việt Nam mà chưa có giấy phép làm việc, nên nhà thầu Sinohydrro Corporation Limitted bị phạt 570 triệu đồng. 9. Golden Westlake là khu chung cư với 2 toà nhà 23 tầng tại Hà Nội, do công ty TNHH Hà Việt-Tung Shing là chủ đầu tư. Khởi công cuối năm 2005, dự trù hoàn thành vào năm 2007. Nhưng, chủ dự án gặp nhiều rắc rối khi xây dựng khu biệt thự sát bên khu chung cư đã gây ảnh hưởng trực tiếp tới hơn 100 gia đình chung quanh, làm các căn nhà này bị sụt, lún, nứt, xô nghiêng... Một số chủ gia đình đã đưa nội vụ ra tòa, và phải trả tiền bồi thường lên đến 500 triệu đồng. 10. Nhà máy dệt may tại khu công nghiệp Lai Vu tỉnh Hải Dương. Tháng 8/2013, tỉnh Hải Dương cho biết, Tập đoàn Crystal của HongKong sẽ đầu tư khoảng 425 triệu mỹ kim vào dự án dệt Pacific Crystal, và 120 triệu mỹ kim vào dự án may Tinh Lợi mở rộng, sử dụng khoảng hơn 70 mẫu tây đất trong khu công nghiệp Lai Vu. Cả hai dự án có số công nhân lên đến 22.900 người. Thứ hai. Khu kinh tế Vũng Áng, Hà Tình. Vũng Áng là khu kinh tế trong khu đô thị Vũng Áng, và khu kinh tế Bắc Quảng Bình - Nam Hà Tĩnh. Thành lập từ tháng 4/2006, với diện tích 227 cây số vuông sát chân dãy Hoành Sơn, gồm các xã Kỳ Nam (dưới chân Đèo Ngang), Kỳ Phương, Kỳ Lợi (có Mũi Ròn Mẹ và Mũi Ròn Con), Kỳ Long, Kỳ Liên, Kỳ Thịnh, Kỳ Trinh, Kỳ Hà, và Kỳ Ninh, huyện Kỳ Anh. Toàn bộ khu kinh tế Vũng Áng bao bọc hai bên quốc lộ 1, chiếm hai phần ba chiều dài quốc lộ 1 đoạn từ Đèo Ngang đến ranh huyện Cẩm Xuyên. Tổng số công nhân lên đến 30.400 người, trong số đó có 980 lao động của chủ đầu tư, và 3.200 công nhân Trung Cộng do nhà thầu trực tiếp tuyển vào. Điều mà dư luận từ người dân đến các tổ chức xã hội dân sự quan tâm hơn hết là vấn đề an ninh. Khu kinh tế Vũng Áng là một trong những vị trí trọng yếu bậc nhất về mặt quân sự, vì lãnh thổ Việt Nam với dạng hình cong chữ S theo chiều nam bắc khoảng 1.500 cây số tính theo đường chim bay, hai đầu phình ra và eo thắt ở giữa. Bề ngang lãnh thổ theo chiều Đông Tây: Nơi rộng nhất của Miền Bắc khoảng 600 cây số là từ A-pa-chài đến Móng Cái. Miền Nam rộng nhất khoảng 370 cây số là từ Hàm Tân đến Hà Tiên, nơi eo thắt ở Miền Trung là Đồng Hới, từ bờ biển vào đến biên giới Việt-Lào chỉ có 37 cây số. Đã eo thắt, lại là vùng núi non hiểm trở, nên người dân chỉ sinh sống trên dãi đất hẹp dọc theo bờ biển. Ông Bùi Kiến Thành, chuyên gia kinh tế từ Hà Nội, phân tách: “Vị trí Vũng Áng đối diện với đảo Hải Nam ngoài khơi, nếu ngày nào Trung Quốc xây dựng xong cảng Vũng Áng mà bên đảo Hải Nam chĩa qua ngay Vũng Áng, có thể nói, lúc ấy Vịnh Bắc Việt trở thành cái ao của Trung Quốc, và khi nó ngăn cản sự vận chuyển đường hàng hải của Việt Nam từ Bắc vào Nam thì điều gì xảy ra? Ngoài ra, nó còn là nguy cơ về quốc phòng nữa, vì từ cảng Vũng Áng đi qua Lào chỉ có 50 cây số, và khi có vấn đề gì thì làm sao phòng thủ được, khi Trung Quốc từ bên Lào tràn qua Vũng Áng chỉ 50 cây số đường bộ là họ cắt đôi Việt Nam rồi!” 10.000 công nhân Trung Cộng sắp đến Vũng Áng? Theo báo VietnamNet, trong tháng 6 và 7/2014, “hơn 30 nhà thầu thực hiện dự án của Formosa xin phép được tuyển dụng số lượng gần 11.000 lao động ngoại quốc”. Báo này dẫn nguồn tin từ nhân vật giấu tên nói rằng, "trên 90% trong tổng số gần 11.000 lao động tuyển dụng mới là Trung Quốc. Một trong các lý do sử dụng nhiều lao động Trung Quốc là vì đại đa số các nhà thầu là người Trung Quốc. Chẳng những thế, có những công ty Việt Nam cũng đặt vấn đề xin tuyển lao động Trung Quốc nữa”. Vẫn theo VietnamNet, "trong số hơn 10.000 công nhân ngoại quốc sắp tới Vũng Áng, có từ 6.000 đến 7.000 công nhân làm việc cho Formosa". Ngày 26/8/2014, bản tin của đài BBC cho biết “Có thể có 10.000 lao động Trung Quốc sắp vào làm việc cho tập đoàn Formosa ở khu công nghiệp Vũng Áng”. BBC đã liên lạc với các lãnh đạo Ban Quản Lý Khu Kinh Tế Vũng Áng để xác nhận tin trên, nhưng tất cả đều từ chối trả lời. Ngày 27/8/2014, theo bản tin của Vietinfo thì Ông Nguyễn Đức Thuận, Trưởng phòng quản lý xuất nhập cảnh tỉnh Hà Tĩnh cho biết: “Với báo cáo của Formosa và các nhà thầu thì đề nghị đưa 8.400 công nhân vào làm việc trong “gói thầu” của Formosa là công nhân Trung Quốc. Trong đó, hai gói thầu lớn là lò cao số 1 và số 2 cần đến khoảng 2.000 công nhân”. Ông Thuận cho biết thêm: “Nguyên tắc là tỉnh tạo điều kiện cho doanh nghiệp, nhưng vẫn bảo đảm luật pháp Việt Nam. Trong tổng số gần 10.000 người, chuyên gia chiếm 10-15%, còn lại là lao động phổ thông. Công nhân Trung Quốc tại Vũng Áng rất đông, chỉ riêng xây dựng hai lò cao số 1 và số 2 đã cần khoảng 2.000 người. Vì các nhà thầu nói rằng, trên thế giới chỉ có Trung Quốc mới xây dựng được lò cao luyện thép nên phải để lao động của họ làm”. .”. Ông Hồ Anh Tuấn, Trưởng Ban Quản ý Khu Tinh Tế Hà Tĩnh cho biết: “Đợt tuyển gần 10.000 lao động này, ban đầu các nhà thầu đã thông báo tuyển dụng đúng theo luật Lao Động Việt Nam, không phân biệt lao động trong hay ngoài nước. Nhưng lao động trong nước không đáp ứng yêu cầu về trình độ chuyên môn kỹ thuật cũng như năng lực, nên không được tuyển”. Ngày 29/8/2014, ông Vương Văn Tường, Trưởng đại diện Formosa Hà Tĩnh, cho báo Đất Việt biết: “Sau cuộc biểu tình bạo động hồi tháng 5/2014, tính tới ngày 25/8/2014 số lượng công nhân trở lại làm việc tại Formosa là 24.000 người, trong đó có 1.900 người Trung Quốc. Dự trù đến cuối tháng 9/2014, tổng số lao động sẽ tăng lên khoảng hơn 30.000 người, trong số đó có hơn 5.000 công nhân Trung Quốc tại Vũng Áng. Về nguồn tin hơn 10.000 công nhân Trung Quốc sắp đến Vũng Áng là do ông Nguyễn Trọng Tuấn, Trưởng Phòng lao động và phát triển nhân lực thuộc Ban Quản Lý khu kinh tế Hà Tĩnh công bố: “Theo yêu cầu của công ty TNHH Gang Thép Hưng Nghiệp Formosa và các nhà thầu đã trình hồ sơ, xin tỉnh chấp thuận số lượng hơn 10.000 công nhân nước ngoài, mà trong đó có đến 90% là công nhân Trung Quốc đến làm việc tại Formosa”. Trước những tin tức loan truyền từ các cơ quan truyền thông ngoại quốc bằng Việt ngữ, cộng với những tin tức trên các trang Blog trong nước, liên quan đến nguồn tin Trung Cộng sắp đưa 10.000 công nhân vào khu kinh tế Vũng Áng, Bà Nguyễn Thị Hải Vân, Cục Trưởng Cục Việc Làm/Bộ Lao Động và Thương Binh Xã Hội, khẳng định: "10.000 lao động Trung Quốc vào Vũng Áng (Hà Tĩnh) là làm đúng quy trình". Tóm tắt về 10.000 công nhân Trung Cộng tại Vũng Áng: “Báo VietnamNet loan tin, Formosa xin tuyển 11.000 công nhân mà hơn 90% là tuyển từ Trung Cộng. Đài BBC trong bản tin ngày 26/8/2014 cho rằng có thể có 10.000 công nhân Trung Cộng làm việc cho Formosa. Ngày 27/8/2014, Ông Nguyễn Đức Thuận -Trưởng Phòng xuất nhập cảng Hà Tĩnh- cho biết, trong số 10.000 người nói trên, có khoảng 10-15% là chuyên gia, còn lại là công nhân. Trong khi ông Hồ Anh Tuấn -Trưởng Ban Quản Lý khu kinh tế Hà Tĩnh- thì các nhà thầu tôn trọng luật lao động Việt Nam, nhưng vì công nhân Việt Nam không có khả năng nên họ tuyển từ Trung Cộng. Ngày 29/8/2014, theo ông Vương Văn Tường -đại diện Formosa- dự trù đến cuối tháng 9/2014, Vũng Áng có khoảng 30.000 công nhân, hơn 5.000 trong số đó là công nhân Trung Cộng. Nhưng bà Nguyễn Thị Hải Vân, Cục Trưởng Cục Việc Làm/Bộ Lao Động & Thương Binh Xã Hội, khẳng định: “10.000 công nhân Trung Cộng vào Vũng Áng là đúng qui trình”. Xin trích bài viết trong CAFEF online trên trang dưới tên “Đột nhập đại công trường Formosa”, để có thêm nét nhìn về cái hào vừa rộng vừa sâu bên ngoài bức tường rào của Formosa, nơi mà vị đại diện Formosa nói là hơn 5.000 công nhân Trung Cộng làm việc trong đó. Và đây là bài viết: “Không chỉ những ai đã từng qua lại quốc lộ 1A, đoạn ngang qua Khu Kinh Tế Vũng Áng, mà ngay cả không ít người dân Hà Tĩnh, cũng đều chung cảm giác ngạc nhiên về mức độ qui mô của dự án Formosa. Nhiều câu hỏi đặt ra về an ninh quốc phòng đối với dự án trên một vùng đất rộng lớn ngay vùng eo thắt của lãnh thổ Việt Nam. Nhìn từ bên ngoài, chỉ cái hàng rào cũng khiến người ta ngạc nhiên với đôi mắt tròn xoe. Cả một vùng đất rộng lớn gần 2.000 mẫu tây được xây bức tường rào bao quanh cao chừng 5 thước. Khoảng 2/3 chiều cao của tường rào được đổ bê tông cốt sắt, chỉ một ít gạch được xây phía trên cùng của tường rào. Bên ngoài là một con kinh nhân tạo rộng chừng 30 thước, chạy bao quanh hàng rào. Họ đã bỏ ra hơn 1 tỷ mỹ kim để san lấp mặt bằng khu đất dự án. Cát được hút lên từ biển để nâng cao toàn bộ mặt nền trung bình là 3 thước, có nơi cao đến 15 thước. Người dân không phận sự, chỉ có thể nhìn thấy bên trong hàng rào kia, ngày thì bụi mù, đêm thì đèn điện sáng trưng như phố”. Từ góc nhìn quân sự, Các Anh có đồng ý với tôi rằng: “Mức độ kiên cố của bức hàng rào, cộng với con kênh đào bên ngoài, có phải là thực hiện quan niệm phòng thủ của một căn cứ quân sự không? Mà tại sao khu kinh tế lại phòng thủ như căn cứ quân sự vậy? Nếu là chống kẻ trộm thì đâu cần đến “bức tường rào chắn đạn với cái hào sâu làm chướng ngại ngăn chận quân tấn công từ bên ngoài”. Cho dù một phần trong khu kinh tế Vũng Áng có trở thành khu tự trị người Tàu trên đất Việt hay không, tôi vẫn thấy khó hiểu về quyết định của lãnh đạo Việt Cộng khi chấp nhận biến vùng lãnh thổ nhỏ hẹp này trở thành khu kinh tế mà hầu hết là công dân Trung Cộng “làm việc”, như một vùng đất tách biệt khỏi hai bên lãnh thổ Nam Bắc Việt Nam. Thứ ba. Vẫn là công nhân Trung Cộng tại Việt Nam. Ngày 1/3/2010, ông Ðồng Sĩ Nguyên trả lời phỏng vấn của báo Tiền Phong, rằng: “Từ báo cáo của Bộ Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn, tôi thấy có là doanh nghiệp nước ngoài họ lại chọn thuê ở nhiều địa điểm trọng yếu về an ninh quốc phòng. Cụ thể, họ thuê đất ở Lạng Sơn, Quảng Ninh, Cao Bằng là các tỉnh biên giới. Tại Nghệ An, họ thuê ở các địa điểm gần với đường 7 và 8 sang Lào. Họ thuê ở Quảng Nam, có đường thuận tiện đi lên Tây Nguyên, qua Campuchia. Vậy là nắm những con đường trọng yếu của mình. Kinh nghiệm cho thấy khi làm các dự án, họ đều đưa người đến rồi biến thành các làng mạc, thị trấn riêng biệt của họ... Trong giai đoạn chiến tranh, Trung Quốc cho quân đội làm đường sắt đã lấn chiếm đất của các tỉnh biên giới phía Bắc, muốn làm gì trong đó, thậm chí có thể xây dựng kho tàng bí mật giấu vũ khí, cũng không ai biết....”. “Tập Ðoàn Ðiện Khí Thượng Hải và Tập Ðoàn Ðông Phương của Trung Quốc, có mặt trong các dự án quan trọng xây dựng các nhà máy nhiệt điện Quảng Ninh 1, Quảng Ninh 2, Hải Phòng 1, Vĩnh Tân 2, Duyên Hải 1… Các công ty khác cũng của Trung Quốc đã tham gia dự án nhà máy nhiệt điện Vũng Áng (Nghệ Tĩnh) và Kiên Lương (Kiên Giang) trị giá tới 2 tỷ đôla, đã ký hợp đồng với Việt Nam hồi tháng 7/2010. “Dự án thủy điện Sông Tranh 2 ký kết với nhà thầu Ecidi-Alstom Trung Quốc. Khởi công từ tháng 3/2006, với tổng mức đầu tư lên đến 5.200 tỷ đồng. Theo kế hoạch, nhà máy sẽ phát điện vào năm 2010, nhưng tới ngày 7/1/2011 mới khánh thành máy số 1. Đáng quan ngại là cùng với các gói tổng thầu EPC, Trung Quốc đem công nhân vào Việt Nam đảm trách tất cả mọi việc, kể cả công nhân vệ sinh”. Ngày 31/8/2011 (trang Bauxite online). Giáo sư Vũ Cao Đàm nhận định: “Bằng chiêu bài“ hợp tác khai thác bô-xit” từ 2007 đến 2015 và xét đến 2015, đế quốc Trung Quốc đã đóng chốt ở một vùng vô cùng hiểm yếu của bán đảo Đông Dương, cộng với những hợp đồng thuê 300.000 mẫu tây đất rừng đầu nguồn dọc theo biên giới. Vậy là họ tạo ra một thế quân sự vô cùng nguy hiểm, có khả năng làm tê liệt khả năng phản công bảo vệ tổ quốc khi bị Trung Quốc tấn công từ bốn phía. Chúng ta không quên cộng thêm một bầy nhung nhúc gồm trên 1.300.000 người lao động Trung Quốc. Bọn chúng được các “đồng chí” tại địa phương sắp xếp rãi khắp mọi miền đất nước, đã tạo ra một đạo quân dự bị khổng lồ cầm súng bắn được ngay, đang mai phục khắp lãnh thổ Việt Nam. Một nguy cơ đang rập rình chờ đợi và người dân Việt -những ai còn tỉnh táo- đành sống trong muôn nỗi phập phồng!” Ngày 18/6/2012, phóng viên Thanh Quang đài Á Châu Tự Do có bài phóng sự về công nhân Trung Cộng trên đất Việt. Bắt đầu như một lời than: “Tâm trạng người dân Việt Nam trong nước có tinh thần dân chủ tự do luôn khắc khoải và bất an cho vận nước, bởi rừng đầu nguồn trọng yếu của tổ quốc bị Trung Hoa đưa dân (hay quân) thuê mướn hàng loạt và dài hạn. Vùng đất đầu nguồn là “xương sống của quê hương” bị họ án ngữ theo sự mời gọi của lãnh đạo đáng với nhà nước đã cho họ khai thác bô xít ở Tây Nguyên, nhiều công trình trọng yếu được lãnh đạo nhà nước cho người Trung Hoa trúng thầu, nền kinh tế nước nhà bị họ lũng đoạn, biển cả của tổ tiên bị Trung Quốc lấn chiếm…, và mới đây, người dân lại càng bất an trước tình trạng người phương Bắc dưới dạng “doanh nhân” tới “an nhiên nuôi cá” ở Vũng Rô, thậm chí ngay tại cảng chiến lược trọng yếu Cam Ranh nữa. Chưa hết, hiện nay tại Hải Phòng tràn ngập lao động Trung Hoa”. Hãy nghe ông Nguyễn Đại Nghĩa, Phó chánh văn phòng Sở Lao Động thành phố Hải Phòng bị đại diện công nhân nêu câu hỏi: “Vì sao thành phố cho phép hằng ngàn lao động người Tàu vào Việt Nam làm công nhân như đào đất, phụ hồ, quét dọn, ... nói chung là những công việc này lao động Việt Nam không được thuê mướn trong khi công nhân thất nghiệp lang thang đầy đường?” Ông Nghĩa trả lời như không có gì phải quan tâm: “Ta phải đáp ứng nhu cầu nhà thầu, vì chủ trương của thành phố là luôn luôn thu hút các nhà đầu tư nước ngoài, nên phải tạo điều kiện dễ dàng cho người ta”. Ngày 28/11/203, (bào Dân trí) trong khi Quốc Hội đang thảo luận dự thảo Luật Xuất Nhập Cảnh và cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam, các đại biểu Quốc Hội nêu lên một vấn đề rất lo ngại là lao động ngoại quốc mà đông nhất là từ Trung Cộng, tràn ngập vào Việt Nam và lập làng lập xóm lập phố ở một số địa phương, Đại biểu Trần Ngọc Vinh phát biểu: “Đã có nhiều chục ngàn lao động phổ thông nước ngoài vào làm việc tại các công trình xây dựng, nhất là các dự án do Trung Quốc trúng thầu, như Nhà máy nhiệt điện Quảng Ninh, Hải Phòng, Cà Mau, Xi măng Ninh Bình, Tây Ninh, bauxite Lâm Đồng. Nói là lao động nước ngoài nhưng ai cũng biết đó là người Trung Quốc. Họ có mặt từ các tỉnh biên giới phía Bắc vào đến Mũi Cà Mau, lên tận Tây Nguyên, rải dài các tỉnh duyên hải miền Trung, các tỉnh Đông Nam Bộ. Có những nơi, họ sống theo xóm, theo phố. Dân mình cũng lập phố đưa biển hiệu như phố Tàu. Mới đây, báo chí đưa tin Đông Đô Đại Phố ở Bình Dương là một ví dụ. Người Trung Quốc sang Việt Nam bằng con đường du lịch, rồi ở lại làm việc cho các công trình của nhà thầu Trung Quốc. Số lao động được cấp phép cũng như không được cấp phép, nên rất khó kiểm soát.....” Tóm tắt công nhân Trung Cộng trên lãnh thổ Việt Nam. Theo tài liệu của Viện Nghiên Cứu Cơ Khí/Bộ Công Thương, và của Ủy Ban Tài Chánh Ngân Sách Quốc Hội, đã có 74 dự án lớn mà hầu hết đều do các nhà thầu Trung Cộng thực hiện, tuy không đầy đủ nhưng ít ra công nhân Trung Cộng cũng có mặt tại các tỉnh, như sau: “Nhiệt điện tại Quảng Ninh, nhà máy xi măng tại Ninh Bình, đường sắt tại Hà Đông, xa lộ Hà Nội - Hải Phòng, xa lộ Hà Nội - Lào Cai, nhà máy gang thép Lào Cai, khu chung cư tại Hà Nội, nhà máy dệt và may tại Hải Dương, thủy Diện tại Quảng Nam, nhà máy bô xít Đắc Nông và Lâm Đồng, nhà máy xi măng tại Tây Ninh, nhà máy nhiệt điện tại Trà Vinh, Kiên Giang, và Cà Mau, khu kinh tế tại Bình Dương, Đông Đô Đại Phố tại Bình Dương, khu kinh tế tại Biên Hòa. Thuê đất tại Lạng Sơn, Quảng Ninh, Cao Bằng, Nghệ An, Quảng Nam, Long An, ..v..v.. Vậy, Các Anh thử ước tính, nếu mỗi dự án trung bình có 500 công nhân Trung Cộng, thì 74 dự án cũng gần 40.000 công nhân Trung Cộng, cộng thêm với 10.000 công nhân Trung Cộng tại Vũng Áng. Dĩ nhiên là công nhân Trung Cộng không phải chỉ có ngần này, mà còn có mặt tại các khu kỹ nghệ và khu kinh tế khác nữa, vì tài liệu của Viện Kiến Trúc & Quy Hoạch/Bộ Xây Dựng (trong Wikipedia) cho biết: “Tính đến tháng 2/2011, Việt Nam có 256 khu kỹ nghệ và 20 khu kinh tế tại 62 tỉnh và thành phố. Mục tiêu phát triển hướng đến năm 2020”. Chỉ với con số công nhân Trung Cộng trên đây thôi, Các Anh có nghĩ đến những hậu quả từ số công nhân Trung Cộng không? Chẳng hạn như “liệu trong số đó có bao nhiêu người cầm súng khi tình hình căng thẳng giữa Việt Cộng với Trung Cộng vượt khỏi tầm kiểm soát? Hoẵc tất cả đều cầm súng? Một cách nghĩ khác như một giả thuyết: “Nếu tình hình Biển Đông căng thẳng do Trung Cộng giành lấy tài nguyên, trong khi áp lực quốc tế đè nặng lên Trung Cộng, liệu số công nhân Trung Cộng có mặt trên lãnh thổ Việt Nam, có đứng lên làm cuộc lật đổ nhóm cầm quyền hiện nay để đưa nhóm tay sai tín cẩn lên cầm quyền, lúc ấy Trung Cộng thản nhiên tung hoành Biển Đông vì lãnh đạo Việt Cộng là tay sai của Trung Cộng nên phải im lặng? Kết luận. Với phương tiện truyền thông ngày nay, Các Anh có cơ hội tiếp xúc với thế giới tự do ngang qua hệ thống internet như Các Anh đang đọc lá Thư này. Tôi tin là trong những lúc mà Các Anh sống thật với trái tim và khối óc của chính mình, nhất thiết Các Anh phải suy nghĩ ....Thời cơ ngay trước mặt rồi Các Anh à ... Hãy nhanh lên, để kịp hòa nhập cùng 90 triệu đồng bào làm nên lịch sử, để được ngẫng cao đầu giữa thế giới văn minh lịch sự, được hãnh diện trước những người ngoại quốc đến Việt Nam, tìm hiểu nếp sống văn hóa dân tộc với chiều dài lịch sử ngàn năm trước đã lừng danh thế giới. Các Anh hãy nhớ: Trên thế giới, chưa bao giờ có sự kiện người dân từ các quốc gia Dân Chủ Tự Do chạy sang các quốc gia cộng sản độc tài xin tị nạn chính trị, chỉ có người dân từ các quốc gia cộng sản độc tài ào ạt chạy sang các quốc gia Dân Chủ Tự Do xin tị nạn chính trị. Riêng tại Việt Nam: Thứ nhất. Trong vòng 300 ngày từ sau Hiệp Định Đình Chiến 20/7/1954 có hiệu lực, đã có 868.672 người từ nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa chạy vào nước Việt Nam Cộng Hòa dân chủ tự do tị nạn. Từ năm 1954 đến năm 1956, có thêm 102.861 người trốn khỏi phần đất cộng sản vào phần đất tự do Việt Nam Cộng Hòa chúng tôi tị nạn. Cộng chung là 971.533 người. Đó là cuộc bỏ phiếu bằng chân lần 1 “bầu chọn” chế độ Dân Chủ Tự Do. Thứ hai. Trong vòng 20 năm kể từ sau khi Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa xua quân đánh chiếm Việt Nam Cộng Hòa ngày 30/4/1975, đã có 839.200 người vượt biên vượt biển đến tị nạn chính trị tại 91 quốc gia tự do, và Liên Hiệp Quốc ước lượng khoảng 400.000 đến 500.000 người đã chết mất xác trên biển và trong rừng, trên đường chạy trốn cộng sản! Lại cuộc bỏ phiếu bằng chân lần 2 “bầu chọn” chế độ Dân Chủ Tự Do. Và hãy nhớ: “Tự do, không phải là điều đáng sợ, mà là nền tảng cho sự thịnh vượng của đất nước. Không có dân chủ, không thể có sự trỗi dậy và phát triển bền vững. Và chính chúng ta phải tranh đấu, vì Dân Chủ Tự Do không phải là quà tặng. Tháng 10 năm 2014 ********.

Thư gởi quân đội nhân dân

Thư số 35 gởi Người Lính Quân Đội Nhân Dân Việt Nam. ****** Phạm Bá Hoa Tôi chào đời năm 1930, vào quân đội Việt Nam Cộng Hòa năm 1954, chống lại cuộc chiến tranh do nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa gây ra. Trong bang giao quốc tế, quốc gia này đánh chiếm quốc gia kia, không có tên gọi nào khác ngoài hai chữ “xâm lăng”. Sau ngày 30/4/1975, lãnh đạo cộng sản Việt Nam với lòng thù hận đã đày đọa chúng tôi trong hơn 200 trại tập trung mà họ gọi là trại cải tạo, hằng trăm Bạn tôi đến 17 năm, riêng tôi là 12 năm 3 tháng. Tuy tên Quốc Gia và Quân Lực mà tôi phục vụ không còn nữa, nhưnglinh hồn trong quốc kỳ nền vàng ba sọc đỏ vẫn nguyên vẹn trong tôi. Tôi không hận thù lãnh đạo Các Anh, nhưng tôi không bao giờ quên quá khứ đau thương tàn bạo mà họ gây ra cho Tổ Quốc và Dân Tộc! Vì vậy mà tôi chưa bao giờ, và sẽ không bao giờ về Việt Nam cho đến khi quê hương tôi có một chế độ dân chủ tự do thật sự. Xin gọi chung Người Lính Quân Đội Nhân Dân Việt Nam là Các Anh để tiện xưng hô. Chữ “Các Anh” viết hoa, bao gồm từ người lính đến các cấp chỉ huy, ngoại trừ lãnh đạo cấp Sư Đoàn, Quân Đoàn, Quân Chủng, Bộ Tổng Tham Mưu, và Bộ Quốc Phòng. Là Người Lính trong quân đội “Nhân Dân”, Các Anh phải có trách nhiệm bảo vệ Tổ Quốc Nhân Dân, vì Tổ Quốc với Nhân Dân là trường tồn, trong khi đảng cộng sản hay bất cứ đảng nào cầm quyền cũng chỉ một giai đoạn của lịch sử, và nội dung tôi gởi đến Các Anh được đặt trên căn bản đó. Nội dung thư này, tôi tổng hợp các nguồn tin tức khác nhau, liên quan đến hối lộ trong vụ Việt Nam “in tiền polymer tại Australia”. Thứ nhất. Tư Pháp Australia và vụ hối lộ in tiền Polymer. Ngày 29/7/2014, tổ chức Wikileaks đưa lên internet vụ công ty Securency International hối lộ cho các quốc gia -trong đó có Việt Nam- để được hợp đồng in tiền Polymer. Theo đó, “ngày 19/6/2014, ông Hollingworth, Thấm Phán Tối Cao Pháp Viện tiểu bang Victoria, Australia, căn cứ theo thủ tục pháp lý khi phổ biến một văn kiện đối với 14 vị cựu lãnh đạo và đương kim lãnh đạo trong chánh phủ Malaysia, Indonesia, và Việt Nam”. Xin trích hai điều liên quan: “2. Chiếu theo ḷênh sau, khoản 1 áp dụng đối với những cá nhân sau đây: Bảy vị lãnh đạo trong chánh phủ Malaysia. Ba vị lãnh đạo trong chánh phủ Indonesia. Bốn vị lãnh đạo của nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam. Tất cả đều ghi tên từng vị cùng với chức vụ theo từng thời gian, nhưng trong điều 2 này, tôi trích riêng các vị lãnh đạo Việt Cộng, là: - Ông Trương Tấn Sang , Chủ Tịch Nước hiện nay của Việt Nam (từ năm 2011). - Ông Nguyễn Tấn Dũng, Thủ Tướng hiện nay của Việt Nam (từ năm 2006). - Ông Lê Đức Thúy, cựu Chủ Tịch Ủy Ban Giám Sát Tài Chánh Quốc gia (2007-2011), trước đó là Thống Đốc Ngân Hàng Nhà Nước Việt Nam (1999-2007). - Và ông Nông Đức Mạnh, nguyên Tổng Bí Thư Đảng Cộng sản Việt Nam (2001- 2011)”. “5. Mục đích của lệnh tòa là để ngăn chận thiệt hại cho bang giao quốc tế của Úc, có thể bị gây ra bởi việc công bố các tài liệu có thể làm hại tiếng tăm của cá nhân được đề cập, mà không phải là đối tượng của cáo buôc trong các thủ tục tố tụng”..... Các Anh hãy đọc lại lần nữa để nhận ra “lệnh cấm phổ biến...” của Tối Cao Pháp Viện Victoria. Điều đó được hiểu là 4 ông lãnh đạo Việt Cộng có liên quan đến vụ nhận hối lộ của công ty Securency International để ký hợp đồng giao cho công ty này in tiền Polymer cho Việt Nam. Theo lời lẽ trong văn kiện của ông Thấm Phán Hollingworth, trong một mức độ nào đó, tôi tin là cả 14 vị của 3 quốc gia đều có liên quan đến những vụ án hối lộ in tiền Polymer tại Australia. Nhưng vì thể diện trong bang giao quốc tế, nên ông ra lệnh ngăn cấm phổ biến tin tức này. Vô tình, chính cái văn kiện ngăn cấm ấy lại phơi bày cái xấu xa của những người lãnh đạo đáng khinh bỉ đó được loan đi khắp thế giới. Nếu không liên quan, ắt hẳn các vị lãnh đạo có tên trong văn kiện đó, còn chờ gì nữa mà không kiện Tối Cao Pháp Viện Victoria đòi 1 đồng bạc danh dự. Ngày 7/8/2014, Bộ Ngoại Giao Việt Nam mời ông Đại Sứ Australia tại Hà Nội đến để trao Công Hàm với nội dung: “Việt Nam cực lực phản đối việc tòa án tối cao Victoria của Australia ban hành lệnh kiểm duyệt, liên quan đến vụ in tiền polymer có nêu tên một số quan chức cấp cao nước ngoài trong đó có Việt Nam. Việc làm này xúc phạm danh dự cá nhân lãnh đạo Việt Nam cũng như hình ảnh đất nước Việt Nam, và yêu cầu Australia giải thích lệnh kiểm duyệt này và công khai khách quan vụ án để mọi người hiểu đúng sự thật”. Không biết Các Anh nghĩ sao, chớ tôi thì thấy lạ quá! “Bản chất độc tài, dối trá” lại đòi hiểu đúng sự thật! Mà cần gì tìm đâu xa, chỉ cần đọc phần thứ ba trong thư này là có ngay sự thật mà... Đại Sứ Australia đã ghi nhận ý kiến của Bộ Ngoại Giao Việt Nam, và cho biết chánh phủ Australia sẽ xem xét việc này. Và ngày 23/8/2014, trên trang Web của tòa đại sứ Australia, Đại sứ Hugh Borrowman cho biết: “Đây là vụ án kéo dài, phức tạp có đề cập tới danh tính của một số lượng lớn các cá nhân. Việc lệnh cấm đề cập tới tên các cá nhân không ám chỉ rằng họ có sai phạm. Chính phủ Úc nhấn mạnh rằng các cá nhân được đề cập tên không khẳng định việc nêu danh các nhân vật này trong lệnh kiểm duyệt, không có nghĩa họ làm điều gì sai hay họ là đối tượng điều tra trong vụ Securency”. Vậy, tại sao có tên họ trong hồ sơ vụ án? Các Anh có thấy lạ không? Ông Julian Assange, người điều hành tổ chức Wikileaks, chuyên thu thập và phổ biến những tin tức loại mật và tối mật, đã gay gắt và mỉa mai chánh phủ Australia, nhưng câu cuối cùng của ông nói lên điều xấu xa của một số vị lãnh đạo Châu Á, trong đó có Việt Nam cộng sản: "Lệnh cấm này là lệnh tồi tệ nhất từ trước đến nay. Với nó, chính phủ Úc đã không chỉ bịt miệng báo chí Úc, mà còn bịt mắt cả công chúng Úc. Đây không chỉ là vấn đề chính phủ Úc thất bại trong việc đưa một vụ án tham nhũng quốc tế ra trước công luận như nó xứng đáng phải thế. Bà Bộ Trưởng Ngoại Giao Julie Bishop phải giải thích, tại sao bà lại đe dọa mỗi người dân Úc bằng bản án tù để che dấu một vụ bê bối tham nhũng đáng xấu hổ có liên quan đến chính phủ Úc." "Khái niệm về "an ninh quốc gia" không phải để làm tấm mền che đậy những cáo buộc tham nhũng nghiêm trọng liên quan đến các quan chức chính phủ, ở Úc hay ở đâu cũng thế. Đây là vì lợi ích chung của cộng đồng mà báo chí phải có quyền đưa tin về vụ việc này, trong đó có liên quan đến công ty con của ngân hàng Trung ương Úc. Ai là người môi giới giao dịch này, và chúng ta đã môi giới họ ở cấp quốc gia? Điều tra tham nhũng và lệnh kiểm duyệt thông tin với lý do "an ninh quốc gia" là hai thứ không thể đi đôi với nhau. Thật là mỉa mai khi Tony Abbott đã đem những điều tồi tệ nhất của Châu Á đến Châu Úc". Thứ hai. Tiền giấy polymer lưu hành trên lãnh thổ Việt Nam. Mời Các Anh vào trang để biết qua tiền giấy Polymer do công ty Securency International in và chánh phủ Việt Nam phát hành ra sao nhé! Từ năm 2003 đến năm 2006, Ngân Hàng Nhà Nước lần lượt phát hành 6 loại tiền Polymer, và từ đó ngân hàng nhà nước chấm dứt in loại tiền giấy làm bằng cotton: Ngày 17/12/2003, phát hành loại tiền mới Polymer với 20 triệu tờ loại 50.000 đồng, và loại 500.000 đồng(lớn nhất từ trước tới nay). Ngày 1/9/2004, hành tiền giấy loại 100.000 đồng in trên giấy Polymer”. Ngày 1/7/2006, phát hành tiền mới loại 20.000 đồng, trong khi tiền giấy loại 20.000 đồng in bằng cotton đang lưu hành, vẫn có giá trị”. Ngày 30/8/2006, phát hành tiền giấy loại 10.000 đồngvà 200.000 đồng. Vậy là 6 loại tiền Polymer đã phát hành, riêng các loại từ 5.000 đồng trở xuống thì ngân hàng sẽ phát hành bằng tiền xu. Chính tiền Polymer in tại Australia, là nguồn gốc của vụ hối lộ mà báo chí ngoại quốc loan tải. Theo tác giả Nguyên Anh trong bài viết ngày 1/8/2014, nhận định: Chuyện cựu Thống Đốc ngân hàng nhà nước cộng sản Việt Nam là ông Lê Đức Thúy, đã nhận hối lộ hằng chục triệu mỹ kim của công ty in tiền Australia, để duyệt hợp đồng in tiền Polymer cho Việt Nam, với sự tiếp tay của Đại Tá an ninh Lương Ngọc Anh, lâu nay đã chìm vào im lặng một cách đáng sợ”. Thứ ba. Nhìn lại vụ hối lộ in tiền Polymer. Năm 2002, công ty Securency International đã giành được hợp đồng in tiền Polymer cho Ngân Hàng Nhà Nước Việt Nam, bằng cách bắt mối với một công ty Việt Nam tại Hà Nội, nơi có con của cựu Thống Đốc Ngân Hàng Nhà Nước Việt Nam làm việc. Theo báo The Age: “.. Securency dùng các khoản hoa hồng lớn, trả cho đại diện giao dịch của các quốc gia có hợp đồng in tiền Polymer, dẫn đến những cáo buộc công ty này dùng tiền hối lộ để giành hợp đồng”. Các Anh đọc tiếp đoạn này mà tôi trích trong Wikipedia về ông Lê Đức Thúy, như sau: “Ngày 15/10/2006, báo chí Việt Nam đăng tải sự kiện bà Nguyễn Thị Việt Nhân, Đại Biểu Quốc Hội tỉnh Kiên Giang, chất vấn ông Lê Đức Thúy 3 điểm: Thứ nhất.Vụ hối lộ trong dịch vụ in tiền Polymer ở Australia. Thứ hai. Vụ hóa giá nhà cho ông Thúy theo Nghị Định 61/CP với giá 472 triệu đồng, trong khi giá thị trường vào khoảng 10 tỷ đồng . Và thứ ba. Con trai ông Thúy là Lê Đức Minh liên quan đến vụ in tiền polymer”. Trong tài liệu không có phần trả lời của ông Thúy (có lẽ báo không được phép đăng), nhưng ít ra cũng có bà đại biểu của cử tri đặt vấn đề chánh thức tại diễn đàn Quốc Hội. Bản tin của đài BBC “Cảnh Sát Úc tìm thấy chứng cứ và đang điều tra vụ hối lộ 10 triệu Úc kim liên quan đến ông Lê Đức Thúy trong đợt in tiền Polymer. Như cách phân tích của báo The Age, người đọc có cảm tưởng từ Đại Tá Lương Ngọc Anh tới ông Lê Ðức Thúy và con trai của ông, trong vụ nhận hối lộ in tiền cho Ngân Hàng Nhà Nước, cũng có thể chỉ là những người trung gian đứng dàn xếp đầu cầu dịch vụ in tiền. Còn tiền hối lộ là 12 triệu Úc kim, hay ít nhất cũng là 10 triệu mỹ kim, được chuyển thẳng vào một số trương mục bí mật ở ngân hàng Thụy Sĩ, và cả ngân hàng một số nước không bị đánh thuế như Bahamas....” (Từ bài của Bà đại biểu Quốc Hội Nguyễn Thị Việt Nhân, ngày 15/10/2006) Theo báo The Age ngày 26/1/2011: “Công ty in tiền Securency cũng đã trả hối lộ cho ông Lê Đức Thúybằng cách trả tiền học phí cho con ông tại một đại học tại Anh. (tài liệu từ ông Nick McKenzie và Richard Baker ngày 24/1/2011). Tôi nghĩ, nêu thật sự lãnh đạo Các Anh thanh liêm, trong sáng, không dính dáng đồng nào trong vụ Công Ty Securency đưa hối lộ cho phía Việt Nam, thì căn cứ các tài liệu trên đây trong Wikipedia mà đi kiện đài BBC và tờ báo The Age được rồi. Một nét nhìn chung, nếu trong sáng thanh liêm, thì làm sao Thủ Tướng Việt Cộng Nguyễn Tấn Dũng có tiền mua một cung điện tại Dubai với giá 120.000.000,00 mỹ kim(120 triệu MK) mà bản tin đài RFA ngày 14/4/2014 đã loan? Đài BBC ngày 4/7/2009 có bản tin “Tiền hối lộ quan chức Việt Nam được đưa vào tài khoản ở Thụy Sĩ”. Theo đó, Công ty Securency International (SI) trụ sở tại Melbourne, có hợp đồng in tiền cho 26 quốc gia, trong đó có Việt Nam. Với tiết lộ mới nhất có liên quan đến số tiền hối lộ trao tay cho khách hàng Việt Nam từ công ty Securency của Úc. Cảnh Sát liên bang Australia xác nhận với ngân hàng trung ương nước này rằng, họ đang điều tra cáo buộc công ty cung cấp vật liệu in tiền polymer Securency của Úc “hối lộ” cho khách hàng Việt Nam để giành hợp đồng in tiền”. Trang VnExpress trên Google.vn ngày 10/3/2011, ông Nguyễn Xuân Phúc, đứng đầu văn phòng chánh phủ, xác nhận: “Ông Lê Đức Thúy, Chủ Tịch Hội Đồng Giám Sát Tài Chánh Quốc Gia, bị cáo buộc có dính dáng tới tham nhũng trong vụ in tiền Polymer, sẽ vềhưu từ ngày 1/5/2011. Ông giữ vị trí này từ tháng 3/2008, và trước đó là Thống Đđốc Ngân Hàng Nhà Nước từ năm 1999 tới giữa năm 2007. Ngày 4/7/2011, Cảnh Sát liên bang Australia tiếp tục điều tra các tòng phạm trong vụ in tiền polymer cho Việt Nam,cho biết: “Rạng sáng 1/7/2011, Cảnh Sát đột kích vào nhiều ngôi nhà ở Melbourne (tiểu bang Victoria), bắt giữ 6 cựu giám đốc cao cấp của công ty Securency International và công ty NPA, với tội danh hối lộ liên quan đến các hợp đồng in tiền Polymer ở Việt Nam, Malaysia và Indonesia. Đây là 2 công ty chuyên in tiền Polymer cho hơn 30 quốc gia, cũng là công ty con của Ngân Hàng Trung Ương Australia, gọi tắt là RBA. (trong hình là ông Nitchell Anderson, cựu Giám Đốc Tài Chánh công ty Securency International, gọi tắt là SI). Đây là hành động bắt giữ đầu tiên, trong cuộc điếu tra quốc tế liên quan đến vụ hối lộ giành hợp đồng in tiền Polymer kéo dài từ năm 1999 mà Cảnh Sát tại Australia, Châu Á và Châu Âu, cùng điều tra hình sự để truy tìm đường đi của 25 triệu mỹ kim mà Cảnh Sát quốc tế tình nghi 2 công ty con của ngân hàng quốc gia Australia (RBA) đưa hối lộ cho khách hàng các nước Châu Á và Châu Phi. Những người vừa bị Cảnh Sát Australia bắt giữ, do bị cáo buộc tội đưa hối lộ cho 3 nước khách hàng là Việt Nam, Malaysia, và Indonesia từ năm 1999 đến năm 2005, gồm: (1) Ông Myles Curtis, 55 tuổi, cựu CEO SI, bị cáo buộc 3 tội hối lộ cho khách hàng Việt Nam và Malaysia. (2) Ông John Leckenby, 66 tuổi, cựu CEO NPA, bị cáo buộc 2 tội đưa hối lộ cho khách hàng Indonesia và Malaysia. (3) Ông Mitchell John Anderson, 50 tuổi, bị cáo buộc 2 tội (4) Ông Peter Sinclair Hutchinson, 61 tuổi. (5) Ông Barry Thosmas Brady, 62 tuổi. (6) Ông Rognvald Leslie Marchant, 64 tuổi. Ba vị sau cùng bị cáo buộc mỗi người 1 tội. Mỗi tội danh, có thể bị phạt tối đa là 10 năm tù, và bị phạt đến 1 triệu mỹ kim. Theo bản tin AFP ngày 10/8/2011, ông Clifford John Gerathy, 60 tuổi là người Úc thứ 7 bị truy tố trong vụ án công ty Securency đưa hối lộ 17,8 triệu EURO cho một quan chức Việt Nam. Phiên tòa đầu tiên tại Melbourne. Ngày 14/8/2012, các nghi can đã ra tòa tại Melbourne (Australia) để nghe phía công tố cáo buộc hai công ty trực thuộc Ngân Hàng trung ương Úc, trả hàng chục triệu mỹ kim cho người môi giới ở Việt Nam, Indonesia, và Malaysia để giành hợp đồng in tiền polymer. Xin trích riêng phần cáo buộc liên quan đến Việt Cộng: Công tố viên Nicholas Robinson: “Cựu giám đốc Securency, ông Myles Curtis là vai chính trong vụ đưa hối lộ cho giới chức ngân hàng ở ba nước Đông Nam Á. Bà Elizabeth Masamune, đại diện của cơ quan xúc tiến thương mại Úc (gọi tắt tiếng Anh là Austrade) ở Hà Nội, liên lạc với ông Curtis vào năm 2000 để giới thiệu người môi giới V iệt Nam là Lương Ngọc Anh”. Nội dung một e-mail của Bà Elizabeth đọc tại tòa rằng: “Ông Anh đã tiếp xúc với một viên chức ngân hàng Việt Nam, người muốn hợp tác với Úc trong vụ in tiền”. “Securency đồng ý trả tiền du học cho con trai củaThống Đốc Ngân Hàng nhà nước là ông Lê Đức Thúy. Trong một số vụ, tiền hối lộ được che giấu qua các hóa đơn cho người phiên dịch, tiền đi lại, và quảng cáo. Người môi giới (Đại Tá Lương Ngọc Anh) được hứa trả tiền dựa trên căn bản và sự hiểu biết rằng từ số tiền này, ông ta sẽ hối lộ quan chức ngân hàng để có hợp đồng. Trong 5 năm, hai công ty đã giành được nhiều hợp đồng từ Ngân Hàng nhà nước Việt Nam sau khi trả hơn 15 triệu Úc kim vào các tài khoản của ông Lương Ngọc Anh ở nhiều nước”. “Trong một email đọc tại tòa, thì ông Lương Ngọc Anh yêu cầu tăng tiền thù lao, ông Clifford Gerathy trả lời: “Chúng tôi sẽ tăng tiền thù lao lên 10% khiNgân Hàng nhà nước Việt Nam trao thêm hợp đồng cho Securency, thay vì buộc chúng tôi phải tham gia đấu thầu”. Báo The Age, tờ báo phát hiện trước nhất về vụ án hối lộ để giành hợp đồng in tiền Polymer, tường thuật rằng: “Bộ Ngoại Giao và Thương Mại Úc yêu cầu phiên xử kín với lý do sợ tiết lộ thông tin gây hại cho quan hệ ngoại giao của Úc”. Nhưng luật sư Veronica Scott của báo The Age đã thuyết phục được tòa,rằng: “Vụ án vô cùng quan trọng vì lợi ích công chúng. Việc gây xấu hổ hay nhạy cảm cho chính phủ, không phải là lý do để xử kín.” Sau phiên tòa nói trên, báo VN Chronicle onlinengày 15/8/2012, đăng lại từ báo Sydney Morning Herald (SMH). Theo đó, “Công Tố Viên Robinson cáo buộc Lương Ngọc Anh, Đại Tá tình báo Công An là người nhận tiền hối lộ cho cấp lãnh đạo Ngân Hàng Nhà Nước Việt Nam trong dịch vụ công ty Securency in tiền giấy nhựa cho Việt Nam. Lương Ngọc Anh, đang là Tổng Giám Đốc công ty Phát Triển Công Nghệ (CFTD) tại Hà Nội. Ðương kim Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng, thời đó là Phó Thủ Tướng thường trực, Chủ Tịch Hội Ðồng Tài Chính Tiền Tệ của chính phủ, và tháng 5/1998 Quốc Hội cử Nguyễn Tấn Dũng kiêm chức Thống Đốc Ngân Hàng Nhà Nước. Đến tháng 12/1999, bàn giao cho ông Lê Đức Thúy. Vụ Đại Tá Lương Ngọc Anh làm trung gian nhận tiền hối lộ của Securency và NPA, diễn ra trong cả 2 thời Thống Đốc Ngân Hàng Nhà Nước Việt Nam là Nguyễn Tấn Dũng và Lê Ðức Thúy. Số tiền “hoa hồng” từng được đề cập đến là $20 triệu Úc kim”. Phán ứng tại các quốc gia liên quan. Tại Malaysia. Ủy Ban Chống Tham Nhũng (ACC), buộc tội ông Mahamad Daud Dol Moin, cựu Phó Thống Đốc Ngân Hàng Trung Ương, đã nhận 100.000 ringgit (33.000USD) tiền hối lộ từ công ty Securency InternationalSI vào khoảng cuối năm 2004 và đầu năm 2005. Người trung gian là doanh nhân Abdul Kayum Syed Ahmad, để giúp NPA ký được hợp đồng in tiền Polymer trị giá 30 triệu mỹ kim. Nếu bị kết tội, mỗi người có thể bị ngồi tù đến 20 năm. Ngày 8/10/2010, Ủy Ban Chống Tham Nhũng của Malaysia (MACC) cho biết: “Đã bắt giữ 3 người liên quan tới vụ hối lộ chung quanh hợp đồng in tiền polymer tại Australia. Việc Malaysia bắt giữ 3 người nói trên chỉ được công bố, sau khi 2 người đàn ông khác bị bắt giữ tại Anh quốc hai ngày trước đó (6/12/2010)”. Tại Indonesia. Công ty Securency International và Công ty NPA ký được một hợp đồng vào năm 1999, để in 500 triệu tờ loại 100.000 rupiah bằng nguyên liệu Polymer. Người trung gian là doanh nhân Radius Christanto, được trả khoảng 4.900.000,00 mỹ kim. Giám Đốc Tiền Tệ của Ngân Hàng Trung Ương Indonesia là ông Herman Joseph Susmanto, bị cho là có liên quan trực tiếp đến vụ nhận hối lộ này. Tại Việt Nam. Sau các thông tin phát đi từ Australia, Việt Nam đưa vào danh sách các vụ tham nhũng nghiêm trọng và phức tạp mà Ban Chỉ Đạo trung ương về phòng chống tham nhũng tập trung chỉ đạo, theo dõi, đôn đốc. Trong báo cáo công tác phòng chống tham nhũng mà chánh phủ gởi Quốc Hội hồi tháng 10/2011, theo đó thì “Bộ Công An đã có báo cáo kết quả xác minh bước đầu chưa phát hiện có tham nhũng, trong việc điều tra nghi án công ty Securency đưa hối lộ cho công ty CFTD (Việt Nam) trong vụ in tiền Polymer”. Theo VnExpress, tiếp xúc với Phó Tổng Thanh Tra chánh phủ là ông Trần Đức Lượng hồi giữa tháng 8/2009, được ông trả lời rằng: “Mới phát hiện dấu hiệu chưa thực sự minh bạch trong vụ này, nên chưa thể kết luận phía Việt Nam có vi phạm hay không”. Với cáo buộc từ tối cao pháp viện Victoria (Australia), Malaysia điều tra và bắt giữ các viên chức liên quan, trong khi Indonesia điều tra và xác nhận vụ nhận hối lộ, còn Việt Nam thì Bộ Công An nói chưa phát hiện tham nhũng. Các Anh nghĩ sao thì tôi chưa biết, nhưng với tôi thì không có gì ngạc nhiên với bản báo cáo của Bộ Công An mà chánh phủ gởi cho Quốc Hội. Vì các cấp lãnh đạo cùng trong hệ thống tham nhũng, thì sự che chắn cho nhau là chuyện bình thường trong xã hội chủ nghĩa. Vì vậy mà sự kiện lãnh đạo Việt Cộng nhận hối lộ của công ty Securency in tiền Polymer, cũng là chuyện bình thường dưới cách nhìn của người cộng sản. Nhưng với những người có ý thức về một xã hội dân chủ tự do thì không thể chấp nhận điều bình thường đó, cho dù đang sống trong lòng xã hội Việt Nam. Tôi muốn nói đến những tổ chức xã hội dân sự lẫn những cá nhân trong nước, xác định được ý thức dân chủ tự do khi sử dụng hệ thống internet với vô số tin tức trên thế giới, và bên cạnh đó là điện thoại cầm tay giúp truyền đạt tin tức và hình ảnh thật nhanh. Lá thư mà Các Anh đang đọc đây, là một trong vô số tin tức đó. Kết luận. Với những tài liệu từ Tối Cao Pháp Viện Australia, Cảnh Sát Australia, từ những nghi can bị bắt tại Australia và Malysia, bị thẩm vấn tại Anh quốc và Indonesia, đã là bằng chứng ít nhất cũng là đối với ông Lê Đức Thúy và Đại Tá an ninh Lương Ngọc Anh. Rồi từ hai ông nhận hối lộ này nối đến các ông Nông Đức Mạnh, Trương Tấn Sang, và Nguyễn Tấn Dũng. Nếu không, thì tại sao văn kiện của Tối Cao Pháp Viện tiểu bang Victoria (Australia) có tên của các ông ấy. Đó là văn kiện của cơ quan tối cao ngành Tư Pháp trong một vụ án hối lộ quốc tế, chớ đâu phải một văn kiện hành chánh thông thường. Nhân vụ hối lộ in tiền Polymer này, tôi có vài con số dưới đây giúp Các Anh có nét nhìn về những vị lãnh đạo Việt Cộng liên quan, còn suy nghĩ thế nào là tùy Các Anh. Với tài liệu của Poliburos Network ngày 19/12/2000kèm danh sách khoảng 300 đảng viên giữ các chức vụ lãnh đạo trong hệ thống đảng với nhà nước Việt Nam, là chủ nhân của những số tiền lớn gởi tại các ngân hàng ngoại quốc, cộng với những bất động sản tại Việt Nam. Tôi trích riêng 3 vị lãnh đạo Việt Cộng với các chức vụ lúc ấy có liên quan đến vụ hối lộ in tiền Polymer: Ông Trương Tấn Sang, Chủ Tịch Ủy Ban Kinh Tế trung ương đảng cộng sản Việt Nam, số tiền 1.124.000.000,00 mỹ kim (1 tỷ 124 triệu MK). Ông Nguyễn Tấn Dũng, đệ nhất Phó Thủ Tướng, số tiền 1.480.000.000,00 mỹ kim (1 tỉ 480 triệu MK). Ông Nông Đức Mạnh, Tổng Bí Thư đảng cộng sản Việt Nam, số tiền 1.300.000.000,00 mỹ kim (1 tỷ 300 triệu MK) Ngày nay, với hệ thống internet thông dụng trên thế giới, Các Anh có nhiều cơ hội tìm đọc những tin tức mà Các Anh cần -trong đó có loạt Thư này- Từ đó, Các Anh hãy phân tách và suy nghĩ để chọn cho mình một hướng đi, cùng 90 triệu đồng bào hòa nhập vào Cộng Đồng thế giới tự do, để được ngẫng cao đầu giữa thế giới văn minh lịch sự, được hãnh diện trước những người ngoại quốc đến Việt Nam, tìm hiểu nếp sống văn hóa dân tộc với chiều dài lịch sử ngàn năm trước đã lừng danh thế giới. Tôi xin nhắc để Các Anh nhớ rằng: “Trên thế giới, chưa bao giờ người dân của các quốc gia Dân Chủ Tự Do chạy sang các nước do cộng sản cầm quyền để xin tị nạn chính trị, chỉ có người dân trong các quốc gia bị cộng sản cai trị ào ạt chạy sang các quốc gia Dân Chủ Tự Do xin tị nạn chính trị. Riêng Việt Nam từ tháng 4/1975 đến cuối năm 1995, theo tài liệu của Liên Hiệp Quốc phổ biến năm 2000, đã có 839.200 người thoát khỏi Việt Nam đến tị nạn tại 91 quốc gia,cũng trong thời gian đó Liên Hiệp Quốc ước lượng có từ 400.000 đến 500.000 người chết mất xác trên biển và trong rừng sâu, trên đường vượt biên vượt biển tìm tự do!” Với sự kiện đó, với những con số đó, Các Anh nghĩ gì? Các Anh hãy nhớ lời nói của Đức Đạt Lại Lạt Ma, nhà lãnh đạo tinh thần của Tây Tạng: “Cộng sản là loài cỏ dại, mọc trên hoàng tàn của chiến tranh, là loài trùng độc, sinh sôi nẫy nở trên rác rưởi của cuộc đời”. Và cũng đừng bao giờ quên rằng: “Tự do, không phải là điều đáng sợ, mà là nền tảng cho sự thịnh vượng của đất nước. Không có dân chủ, không thể có sự trỗi dậy và phát triển bền vững. Và chính chúng ta phải tranh đấu, vì Dân Chủ Tự Do không phải là quà tặng. Texas, tháng 9 năm 2014

Thủ phạm tiếp tay trung cộng...

Thủ phạm tiếp tay TQ đánh chiếm Gạc Ma là ‘lãnh đạo cấp cao’ CTV Danlambao - Thiếu tướng quân đội Lê Mã Lương gián tiếp tiết lộ thủ phạm tiếp tay cho Trung Quốc đánh chiếm đảo Gạc Ma của Việt Nam chính là ‘đồng chí lãnh đạo cấp cao’. Theo tướng Lương, trước khi xảy ra trận Hải chiến Trường Sa năm 1988, quân đội Việt Nam đã phải phải nhận lệnh ‘không được nổ súng’ trong trường hợp Trung Quốc đánh chiếm Gạc Ma hay bất kỳ một đảo nào ở Trường Sa. Hậu quả là ngày 14/3/1988, hải quân Trung Quốc dễ dàng đánh chiếm đảo Gạc Ma và ra tay thảm sát 64 người lính hải quân Việt Nam chỉ sau một trận chiến ngắn. Hiện nay, Trung Quốc đang ráo riết xây sân bay quân sự trên đảo Gạc Ma, biến nơi này thành một tiền đồn uy hiếp toàn bộ khu vực miền Nam của Việt Nam. Ai ra lệnh không được nổ súng? Đại tướng Lê Đức Anh Mặc dù tướng Lương không nêu tên đích danh, nhưng ai cũng hiểu ‘đồng chí lãnh đạo cấp cao’ là để ám chỉ ông Lê Đức Anh, khi ấy đang giữ chức bộ trưởng bộ quốc phòng. Đại tướng Lê Đức Anh là người duy nhất trong bộ chính trị CS vào năm 1988 có đủ quyền lực để ra lệnh cho quân đội Việt Nam không được nổ súng. Theo tướng Lương, trong một cuộc họp của bộ chính trị diễn ra sau đó, bộ trưởng ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch đã đập bàn chất vấn: Ai ra lệnh cho bộ đội không được nổ súng? Theo các tài liệu đã được tiết lộ một phần, sau trận Hải chiến Trường Sa năm 1988, đại tướng Lê Đức Anh đã ‘đi đêm’ với Trung Quốc, dẫn tới kết quả là Hội Nghị Thành Đô diễn ra vào năm 1990. Phía Trung Cộng áp lực CSVN phải loại bỏ bộ trưởng ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch vì quan điểm chống Trung Quốc của ông này. Bộ chính trị CSVN đã chấp nhận các yêu cầu của Trung Cộng ‘để bình thường hóa quan hệ’. Vài tháng sau, ông Nguyễn Cơ Thạch bị gạt bỏ mọi quyền lực. Còn đại tướng Lê Đức Anh chỉ 2 năm sau lên làm chủ tịch nước. Hiện nay, dù đã về hưu nhưng đại tướng Lê Đức Anh vẫn là một thế lực đáng sợ trong giới chóp bu Ba Đình. Nhân vật này là người đỡ đầu quyền lực cho thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, còn con trai ông Anh là Lê Mạnh Hà đang giữ chức phó chủ tịch ủy ban nhân dân TP.HCM. Nỗi đau người lính Tướng Lê Mã Lương Thiếu tướng Lê Mã Lương là cựu giám đốc bảo tàng Lịch sử quân sự Việt Nam. Từng tham chiến trong cuộc chiến tranh Việt Nam, chiến tranh biên giới Việt - Trung. Ông được phong làm anh hùng lực lượng vũ trang ở tuổi 21. Theo sách vở cộng sản, tướng Lương là người nổi tiếng với câu nói: “Cuộc đời đẹp nhất là trên trận tuyến đánh quân thù”. Phát biểu của tướng Lê Mã Lương được đưa ra hôm 14/6/2014 tại hội thảo Minh Triết Biển Đông. Video phần phát biểu đã được báo Pháp Luật Việt Nam ghi lại. Trong video, có thể thấy vị tướng này tỏ ra rất xúc động khi nói về trận Hải chiến Trường năm 1988. Có những đoạn, dường như ông phải cố gắng kiềm chế để tránh nói ra hết những hiểu biết của mình. Về câu hỏi vì sao Trung Quốc chỉ tập trung đánh chiếm Gạc Ma, tướng Lương thuật lại lời đô đốc Giáp Văn Cương - người đứng đầu hải quân Việt Nam năm 1988 nói: “Nó chỉ có thể lấy được Gạc Ma. Còn những đảo khác, nếu lấy thì vấn đề không phải như thế... không còn là câu chuyện của 64 chiến sỹ hy sinh và 3 tàu của chúng ta chìm dưới biển như thế”. Tướng Lương giải thích tiếp: “Bởi vì câu chuyện như thế này, có đồng chí lãnh đạo cấp cao đã lệnh là bộ đội ta không được nổ súng nếu như [Trung Quốc] đánh chiếm đảo Gạc Ma hay bất kỳ một đảo nào ở Trường Sa. Không được nổ súng! Và sau này có một câu chuyện và tài liệu đã rõ rồi. Cho nên trong một cuộc họp của bộ chính trị, đồng chí Nguyễn Cơ Thạch đã đập bàn và nói: Ai ra lệnh cho bộ đội không được nổ súng? Chính vì thế khi Trung Quốc tấn công vào đảo Gạc Ma, nó chỉ có hơn 40 lính với mấy cái xuồng bằng hợp kim nhôm đổ bộ vào. Trong khi bộ đội ta, trong đấy có một người sau này được truy tặng anh hùng là thiếu úy Trần Văn Phương chỉ có mỗi tay không và giữ chặt lá cờ trên đảo Gạc Ma. Không có súng. Và rồi lính Trung Quốc bắn, nó đâm. Nó đâm hạ sỹ Nguyễn Văn Lanh nhiều nhát trọng thương. Anh em cứ quần lộn với lính Trung Quốc như vậy... Nó vừa chiếm được đảo Gạc Ma sau đó nó chuyển hướng, nó bắn tàu 505, 604, 605.” Tàu HQ-604 của hải quân Việt Nam hứng chịu đạn pháo dữ dội của lính Trung Cộng và chìm dần xuống biển. Theo tướng Lương, lệnh không được nổ súng cộng với sự chênh lệch lực lượng và khí giới đã khiến cho Trung Quốc dễ dàng đánh chiếm đảo Gạc Ma, 64 người lính hải quân Việt Nam hy sinh trên biển. Vị tướng này chua xót nói: “Đứng về góc độ người lính, đây là nỗi đau không chỉ của người lính hải quân mà cả người lính quân đội nhân dân Việt Nam. Trong lịch sử hải quân Việt Nam, chưa có trận nào mà chỉ có mấy phút thôi mà hải quân ta chết đến hơn nửa đại đội. Lịch sử của các đơn vị chiến đấu bộ binh cũng thế, làm gì có mấy phút mà ‘đi’ như thế... trong đánh nhau, ta cũng trong thế chủ động thì không có chuyện đó. Đó là nỗi đau, mà nỗi đau này nó âm ỷ và sẽ đi cùng người lính cho đến khi kết thúc sứ mệnh trên mảnh đất này.” Trong phát biểu của tướng Lương, có một phần mà đoạn video đã không ghi lại. Đó là câu chuyện dưới thời TBT Nông Đức Mạnh, một quan chức ngoại giao đã đề nghị nhà nước nên yêu cầu Trung Quốc để phía Việt Nam được đến Gạc Ma trục vớt 3 chiếc tàu bị bắn chìm cùng 61 thi thể các chiến sỹ hy sinh trên biển. TBT Nông Đức Mạnh nghe xong liền nói: “Có nên làm việc đó không? Cứ để họ nằm đó cũng đã làm sao" CTV Danlambao