22.4.13

30 THÁNG TƯ, MẤT NƯỚC, MẤT NHƠN QUYỀN,

MẤT NHƠN PHẨM :

NHƠN QUYỀN, MỘT QUAN NIỆM CÒN XA LẠ Ở VIỆT NAM ?



Phan Văn Song

Quyền con người, quyền tự nhiên, quyền cổ điển?:

Quyền Tư Tưởng, Quyền Đi Lại, Quyền Thông Tin, Quyền Ngôn Luận, …và  nhiều nữa, tất cả những “quyền xưa” ấy, “quyền cổ điển” ấy, “quyền ai cũng biết rồi, khổ lắm nói mãi” ấy, ngày nay ở sống Âu Mỹ, chúng ta hầu như không ai nói đến, không ai nghĩ đến, chúng ta sử dụng các quyền ấy một cách tự nhiên, chúng ta thản nhiên sống với những quyền ấy, trong những sinh hoạt hằng ngày, trong cả những cử chỉ hằng ngày, chúng ta chỉ cảm nhận được, biết được, và chỉ phẫn nộ, hay đấu tranh đòi hỏi, khi một ai đó dám “ xâm phạm”.
Trái lại, chúng ta, ngày nay ở Pháp, ở Âu châu, ở Mỹ, đấu tranh, bàn cãi, tranh luận cho các quyền của các thành phần “thiểu số” trong xã hội. Trong các xã hội Âu Mỹ ngày nay, (chỉ có Âu Mỹ, và dĩ nhiên có cả Úc và Tân Tây Lan nữa, xin lỗi các độc giả ở Úc, chúng tôi không quên quý vị đâu khi nói đến Âu Mỹ hay phương Tây!), các xã hội ấy được chia xếp thành nhiều thành phần đa dạng, với nhiều đòi hỏi đặc biệt, với các đặc quyền đặc lợi. Chia theo thứ tự hàng dọc, trên dưới giai cấp giàu nghèo, bằng cấp, “cổ trắng” hay “cổ xanh”, nhưng cũng chia theo hàng ngang, theo cộng đồng, tùy mầu da, tùy chủng tộc, tùy thời gian tỵ nạn, tùy hội nhập, cư ngụ tùy vùng…chia theo Tôn giáo, chia theo tập quán tình dục (đồng tình luyến ái) chia theo cả mập ốm, béo tròn … Ngày nay, người Âu Mỹ sợ “kỳ thị ” đủ mọi thứ… từ tên tuổi, già trẻ (có những chỗ công cộng chống trẻ con, có nơi chống người già, có nơi chống súc vật), đến nhơn danh sức khỏe, cấm hút thuốc, cấm ăn mỡ, cấm uống rượu… Những quyền đặc biệt các thành phần “thiểu số” ấy phải  được phát biểu, ít ra phải được đem ra tranh luận, biểu quyết, thậm chí là những đề tài đấu tranh, tranh cử…
Thử  thí  dụ  về   “quyền Đàn Bà” (dưới cái đề tài chung chung “Đàn bà”, nhiều tiết mục khác nhau cho nhiều Quyền khác nhau, và đấu tranh khác nhau. Khi thì “Nam nữ bình quyền” đơn thuần: Nam nữ bình quyền trong  - nghể nghiệp - lương bổng - chức vụ… Nhưng có khi là những quyền lợi bảo vệ đặc biệt cho cái  đặc biệt” của người Đàn bà: sinh đẻ, nuôi con, quyền thụ thai như ý muốn - lúc nào, thời gian nào - cả quyền phá thai nữa – cả quyền thụ thai có con như không có đàn ông (Thụ thai Nhơn tạo, từ ngữ dịch sai, thụ thai lúc nào cũng Nhơn Tạo, hổng có Nhơn làm sao có thai?) Cùng song song với quyền Phụ nữ, “Quyền Thai nhi”, bao nhiêu tuổi thai nhi có quyền, khi mới thụ thai?, một tuần?, một tháng?) đấy là những đấu tranh, đòi hỏi, tranh chấp, trong thế giới các quốc gia tiên tiến! …Còn đối với các quốc gia chậm tiến, trong ấy có cả Việt Nam chúng ta, những cuộc đấu tranh nhằm cho những “bảo vệ nhơn phẩm người phụ nữ ” chống lại những tập tục hủ lậu các nước chậm tiến: nào là cưỡng hôn, tảo hôn, ấu hôn, mua trinh, giá trị của màn trinh, cắt quy đầu âm hộ, may âm hộ, .... nào là mua bán phụ nữ… Đấu tranh nhằm bảo vệ vai trò người đàn bà trong gia đình, bịt mặt, bịt đầu, đàn bà không được ra đường một mình, “tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử” của Khổng giáo hủ Nho….Ngày nay nếu  Quyền “làm lễ hôn phối giữa người đồng tính” tạo xì căng đan cho mọi xã hội, thì Quyền phải “có nhà ở” cho mọi công dân, Quyền một người ngoại quốc “di trú” được bầu cử, Quyền được “lánh nạn”…là những bước tiến đáng để chúng ta suy nghĩ!  
Thế giới phương Tây ngày nay đưa nhiều  ý kiến, nhiều quan điểm đấu tranh về Nhơn quyền. Nhiều đến một anh bạn người Syrie, tỵ nạn chánh trị không hiểu được, anh bảo, làm sao dân Syrie chúng tao làm cách mạng Dân chủ, đòi hỏi tôn trọng Nhơn quyền được? Khi tụi bay, (nói chuyện với người viết) bảo Nhơn quyên có cả quyền các con vợ có quyền ngang chồng trong gia đình, dám bàn cải với chồng, không nghe lời chồng. Khi cả các thằng đồng tình luyến ái được quyền sống tự do cái mà Chúa cấm (Chúa của Hồi giáo), nay lại đòi làm lễ hôn phối mà cũng không nhốt, không bỏ tù, ở xứ tao là tụi tao treo cổ vì phạm tội Chúa? Khi mình, người viết trả lời rằng, đàn bà là 50%, có khi 60% nhơn loại, và những người đồng tình luyến ái cũng là con người, cũng là Con Chúa, cũng là anh em chúng ta, và nếu họ cần yêu người đồng tính, họ chỉ tìm hạnh phúc với người đồng giới tính, là biết đâu, đó là do ý Chúa. Nếu thật sự các anh là những người ngoan đạo, thì các anh phải thương yêu tất cả… như tình yêu Thiên Chúa thương yêu tất cả nhơn loại. Anh bạn người Syrie đến nay vẫn không hiểu mình, khi mình nói Dân chủ việc đầu tiên là nghe ý kiến người khác, và nếu mình không đồng ý vẫn tôn trọng ý kiến người khác, Dân chủ là những dị biệt, những bất đồng sống cạnh nhau, không bắt buộc phải hòa hợp với nhau? Trao đổi, thông cảm, tương kính, và phục vụ cho một cộng đồng chung,  vì đó là trật tự xã hội.
Người viết xin kể  với quý độc giả câu chuyện trên để chứng mình rằng quan niệm Dân chủ còn rất xa vời với nhiều dân tộc, nhiều văn hóa khác nhau. Người bạn Syrie của tôi là một anh chiến sĩ Dân chủ đáng khen, đáng nể phục, chống độc tài Bachar al-Assad, anh thường kể cho tôi biết những giấc mơ Dân chủ của anh, anh có những giấc mơ dân tộc Syrie được những Quyền con người, Quyền công dân, những Quyền tuy rất xưa của thế giới phương Tây”  như Quyền ngôn luận, Quyền bầu cử, Quyền đi lại, quyền, quyền… Nhưng anh không đồng ý với vài cái quyền, anh tranh luận với tôi về Nam nữ bình quyền, anh chấp nhận có thể có đàn bà làm đại biểu, dân biểu Quốc hội, nhưng chỉ đại diện khối Đàn bà,  đại diện tiếng nói phụ nữ, anh chấp nhận đán bà đi học, có bằng cấp, nhưng chỉ trong những ngành nghề  đàn bà, như đàn bà có thể làm Bác sĩ để chữa bịnh, khám bịnh đàn bà, làm Cô giáo, làm cô Hộ sinh… Ráng lắm, anh chấp nhận cho đàn bà làm Tổng Bộ trưởng các Bộ  Đàn bà, các Bộ Gia đình… Ráng thêm tí nữa… Bộ  Xã hội hay Bộ Y tế Chứ các Bộ Kinh tế, Quốc Phòng, hay Thủ Tướng thì … Đàn bà biết cái gì mà làm! Và đến cả ngày nay, anh tỵ nạn ở Pháp, từ hơn 6 tháng nay, sống trong một gia đình người Pháp, rất tiến bộ, …anh vẫn tiếp tục trình bày say sưa những quan niệm ấy, mặc dù anh có kiến thức đại học, mặc dù anh là một chiến sĩ Dân chủ, mặc dù anh đã ở Syrie, độc tài, đánh nhau, vào sinh ra tử … Anh hiện bị thương, cụt một chân, anh về dưỡng thương ở một gia đình người Pháp ủng hộ phong trào kháng chiến Syrie quen với chúng tôi. Tôi thường đến thăm gia đình ấy vì cùng họ đạo (Tin Lành), và do đó làm quen với anh bạn người Syrie nầy. Qua kiến thức anh bạn người Syrie nầy, tôi đo lường được các khoảng cách khổng lồ giữa ý thức chánh trị và quan niệm Dân chủ của thế giới thứ ba chậm tiến và các quốc gia tiên tiến Âu Mỹ. Cá nhơn chúng tôi tự hỏi: những đấu tranh chống độc tài, những cách mạng màu các quốc gia cựu Sô Viết, những cách mạng Hoa Lài, những nổi dậy Á Rập, những mùa xuân Á Rập có phải thật sự là những đấu tranh đòi Dân chủ, đòi Nhơn quyền, đòi quyền Tự quyết cho người dân hay chỉ là những bạo động cướp chánh quyền của nhóm nầy chống nhóm nọ, của phe nầy chống phe kia, giành giựt quyền lợi. Dân chủ, Nhơn quyền? Tự do, Độc lập chỉ là những bánh vẽ, những chiêu bài rỗng tuếch bán cho người dân, những nạn nhơn muôn thuở của muôn cuộc Cách mạng, của muôn cuộc Chiến?. Hỏi để mong quý vị trả lời giùm.
Ấy là chúng tôi, người viết không dùng chữ “tự do ”, đi với chữ “quyền” vì đối với cái suy nghĩ của những công dân các quốc gia tiên tiến, dùng thêm từ “tự do” với từ “quyền” biến thành điệp ngữ “pléonasme”, đúng hơn là điệp ý. Việt Nam ta đấu tranh đòi Tự do Ngôn luận, Tự do Tư tưởng…Đòi như vậy, Nhà nước Cộng sản cầm quyền sẽ trả lời, và đã trả lời rằng “Người dânn Việt Nam có quyền chứ! Có tất cả mọi quyền, nhưng không được tự do lung tung đó thôi. Quan niệm vả từ ngữ “lề phải” xuất phát do từ đấy. Để so sánh Nhà cầm quyên Việt Cộng ưa dùng từ ngữ “Dân chủ Đa nguyên”, để nói họ vẫn Dân chủ nhưng họ vì Đảng nên Độc Đảng thôi! Dân chủ phải là Đa Nguyên, Đa Ý, Đa quan điểm, Đó là cái tự nhiên! Nói Dân chủ Đa nguyên là điệp ý và tai hại hơn mở cửa cho Việt Cộng náo bướng nói láo, cãi chầy cãi cối! Như vậy:
Đòi Quyền, là đủ rồi… Bản Tuyên Ngôn Quốc tế Nhơn Quyền đã nói chữ quyền là đủ rồi. Quyền là cái điều tự nhiên của Con Người. Tại sao phải thêm chữ Tự do, chỉ vì anh cấm cái quyền tự nhiên của tôi.

Lịch sử Nhơn Quyền:

Hôm nay, ta ôn cố để nói rằng những cái quyền mà ta cho là xưa là cổ điển ấy, cũng không tự nhiên mà có. Nó là cả một gia tài trong một gia phả đấu tranh, một lịch sử dài phát xuất từ gốc Judéo-chrétien – Do Thái cơ đốc giáo, và đặc biệt do các cuộc đấu tranh của các phái Cơ đốc Tin Lành.
Những người đầu tiên  đòi nhơn quyền, đòi quyền tự do tư tưởng cho những người ngoài Thiên Chúa giáo là những nhà truyền giáo người Tây Ba Nha, Giòng Tên – Jésuites, Thiên Chúa giáo La Mã, trong thời kỳ xâm chiếm các thuộc địa ở Nam Mỹ: Anton de Montesinos, Francisco de Vittoria và đặc biệt Bartolomé de Las Casas, ba vị ấy lập ra nhóm “Trường phái Salamanque”. Chính ba nhà truyền giáo ấy đã đứng ra bào vệ những thổ dân Nam Mỹ (Indios-Việt Ngữ dịch sai là Mọi Da đỏ) không để các nhóm di dân gốc Âu châu khai thác họ và biến họ thành những người nô lệ. Những Quyền mà Vittoria bảo vệ và đòi hỏi cho thổ dân Nam Mỹ là Quyền được (tự do) đi lại, Quyền tư hữu, Quyền có thể tậu nhà, tậu gia sản, đất đai, Quyền bình đẳng như một công dân khác và Quyền không được một ai đuổi họ ra khỏi nơi họ cư ngụ, nhà vườn, tài sản ( rf  thử so sánh: chuyện Đoàn Văn Vươn ở Việt Nam ngày nay)
Những tư tưởng của Vittoria đã giúp linh mục Giòng Tên - Jésuite Francisco Suarez (1548-1617), một nhà hiền triết, một nhà thần học, một luật gia, được người đời  thường so sánh với Saint Thomas d’Aquin (1225-1274). Francisco Suarez với Luận án Tractatus de Legisbus ac de Deo legislatoreLuân về Luật và Chúa, Người làm Luật, Ngài được xem là cha đẻ của Luật Quốc tế, Ngài cũng tuyên bố rằng các lãnh thổ của dân bản địa Indio từ nay là đất bất khả xâm phạm, không một vương quyền nào kể cả Vua Y Pha Nho, kể cả ông Giáo Hoàng, không một di dân gốc Âu châu nào có quyền xâm phạm, người bản địa Indio sanh đẻ trên đất nước mình có mọi Quyền như một di dân Âu châu Thiên Chúa giáo.

Anh Quốc, Mỹ Quốc, Pháp Quốc:

John Locke (1632 -1704), một nhà triết học, hưởng tinh thần và giáo huấn của cha mẹ, một gia đìnhTin lành ngoan đạo, ủng hộ phe ông hoàng Tin Lành Anh Giáo Guillaume d’Orange-Nassau (1650-1702) trong cuộc tranh chấp Ngai Vua Anh Quốc từ 1660 đến 1689. Khi lên được ngôi năm 1689 Ngài lấy tên là Vua Guillaume III. Trước đó Ngai Vua Anh quốc do Charles II 1660-1685 và Jacques II 1665-1688, gốc Thiên Chúa Giáo La Mã.
John Locke phục vụ cho Vua mới, đặt những viên đá đầu tiên cho một “Nhà Nước Pháp Trị”: “mỗi người đều được hưởng những quyền do xã hôi do Nhà Vua (Nhà Nước) tạo lập, tôn trọng và khởi xướng”. Tư tưởng của John Locke đã giúp đỡ tạo thành Bản Tuyên Ngôn Nhơn Quyền đầu tiên của lịch sử nhơn loại, năm 1689: the Bill of Rights.
Bill of Rights nhìn nhận một số quyền cho người công dân và người thường trú trong một nền quân chủ lập hiến và quan trọng hơn cả, ngăn chận một phần các quyền hạn của Nhà Vua để trao trả cho người dân qua nhóm đại diện là Quốc hội.
Nếu chúng ta có dịp đọc kỹ bản văn Bill of Rights nầy, chúng ta sẽ thấy sự ảnh hưởng sâu xa của cuộc nội chiến Tôn giáo đã xâu xé lịch sử Anh Quốc suốt thế kỷ thứ 17. Thật vậy đây là một bản văn do phe ttắng trận viết. Cũng vì phe thắng trận là phe Tin Lành, nên người Tin Lành nhấn mạnh rằng từ nay, sẽ không chấp nhận những đàn áp Tôn giáo do Triều đình (bất cứ Tôn giáo nào) đàn áp người Tin Lành (Tự do Tôn Giáo, Tự do Thờ phượng). John Locke rất chú ý,  và nhấn mạnh nhiều lần những điểm nầy.
Bản văn Bill of Rights nầy làm nền tảng
cho Tuyên Ngôn Virginia tháng 6 năm 1776, 
cho Tuyên Ngôn Độc Lập Huê Kỳ ngày 4 tháng 7  năm 1776, do Thomas Jefferson thảo
và Tuyên Ngôn Quyền Con người và Quyền Công dân Pháp  tháng 8 năm 1789.
Những Tuyên Ngôn Huê  kỳ đều do hậu duệ hay chính những thuyền nhơn của chiếc thuyền Mayflower cặp đất Mỹ Tự do, tỵ nạn năm 1620, gồm toàn là những Giáo dân Tin Lành người Anh. Những dân tỵ nạn người Anh nầy đấu tranh để được độc lập đối với Mẫu quốc Anh. Họ đòi Vương triều Anh phải tôn trọng họ, trao cho họ Quyền Ngôn luận, Quyền Tôn giáo và Tâm linh. Bản kêu gọi lòng bao dung Tôn giáo và sự đãi ngộ ôn hòa đối Tôn giáo trong văn phong, trong lời lẽ của bản kêu gọi phản ảnh sự lo lắng của nhóm Tin Lành đối với thái độ gây hấn và đàn áp người Tin Lành của Vương Triều Anh lúc xưa. Làm như Nhơn quyền và những Quyêné Con người chỉ được nói đến trong một không khí đàn áp đầy sợ hãi! Làm như phải nói đến, phải đấu tranh, phải bảo vệ Nhơn quyền, chỉ khi nào Nhơn quyền bị xâm phạm.
Nhưng ngày hôm nay, Nhơn quyền được nói đến nhiều. Nhiều Hiệp hôi quốc tế được ra đời để bảo vệ Nhơn quyền, để quan sát xem ở đâu Nhơn quyền bị xâm phạm. Và cũng như thành ngữ «Quét nhà ra rác». Càng quan sát, càng bảo vệ Nhơn Quyền, càng nhận thấy Nhơn quyền bị đàn áp mỗi ngày một nhiều, và ở những nơi chúng ta không tưởng tượng được.

Nhưng Giáo hôi Vatican chống:

Năm 1776, khi các Tuyên Ngôn Huê kỳ được công bố, Tòa Thánh Roma. Roma phản ứng chống ngay, cho đấy là Tà giáo. Roma cho đấy là kết quả của Tin Lành, chống lại Nhà Thờ La mã. Cũng vì lý do đó mà Tòa Thánh Roma kết án ngay  bản Tuyên Ngôn Pháp ngày 12 tháng 7 năm 1790.  Chính cái điều số 10 là cái điều nguy hiểm nhứt đối vơíi Giáo hội La Mã: Điều 10 Tuyên Ngôn Quyền Con Người và Công dân Pháp cho phép công dân Pháp có quyền Tôn giáo và Tín ngưởng không bị ràng buộc bởi Nhà Nước. Giáo hôi Thiên Chúa Giáo La mã chỉ chấp nhận Quyền Tín ngưỡng nầy sau Công đồng Vatican II ngày 7 tháng 12 năm 1965.

Còn Việt Nam?:

Là một nước Cộng sản Chủ nghĩa và Xã hôi chủ nghĩa, Việt Nam không biết Nhơn quyền là gì cả. Cả người công dân Việt Nam cũng không biết «quyền công dân» của họ có những gì, gồm những gì. Chế độ độc tài, đặt Đảng trên cả Luật lệ, Hiến Pháp, Quốc hội, Nhà Nước… thì là sao biết quyền công dân, quyền con người là gì.
Chế độ Xin/Cho. Mỗi mỗi chuyện, mỗi phải làm đơn Xin. Khi Xin thì được Phép, tức là Cho Phép. Nếu không Xin được thì Mua, mua bằng đút lót, mua bằng bao thư, tất cả đều có giá nói tóm lại tham nhũng.
700 tờ báo, 700 cách để phát biểu ý kiến, nhưng không một tờ  báo tư nhơn nào. Tất cả do Đảng Cộng sản kiểm soát. Kiểm soát Ngôn luận, kiểm soát Thông tin chưa đủ, kiểm soát cả Tư tưởng. Thư riêng, blog là những phát biểu ý kiến riêng không có tầm vóc thông tin cũng bị kiểm duyệt, đi tù. Trung Cộng và Việt Cộng là hai Nhà cầm quyền đàn áp các người sử dụng mạng thông tin tin học. Đàn áp quyền ngôn luận, đàn áp quyền tư tưởng, đàn áp cả quyền tín ngưỡng . Những Nhà thờ Tin Lành miền Thượng du Nam Việt, các Linh mục, các Mục sư, các tu sĩ Hòa Hảo, các tu sĩ Phật giáo đều bị kiểm soát, kiểm duyệt, sai trái có thể đi tù… Kiểm soát các Chùa, kiểm soát các Nhà Thờ, các Nhà Nguyện … buộc phải tu hành một kiểu, cúng kiến một kiểu… Thặm chí Trung Cộng đánh như thế, hạ nhục Nhà Nước Việt Cộng như thế, mà người Việt Nam tử tế vẫn không có quyền bàn tán, có thái độ, tỏ thái độ, phát biểu thái độ, bất mãn, biểu tình phản đối chống bọn Tàu là bị “dùi cui ”, là đi tù, là lãnh án.
Nói tóm lại từ  ngày 30 tháng tư 1975, dưới chế độ cầm quyền của Cộng sản, tất cả những quyền con người vắng bóng hoàn toàn trên dãi đất Việt Nam. Người dân chỉ có những bổn phận đối với Nhà nước Cộng sản, chỉ biết làm ăn, để sinh tồn, để sinh sống. Kiếm ăn, kiếm sống, sinh tồn qua bửa, qua ngày chả khác chi một loài thú vật. Công dân một đất nước không có quyền Trung thành với đất nước, với Tổ quốc, mà chỉ Trung thành với Đảng. Vậy thi quyền công dân ở đâu?
Tình hình kinh tế, vật giá đang leo thang, lạm phát phi mã, dân càng ngày càng nghèo, càng đói. Bất mãn, chống đối càng ngày càng nhiều, nhưng phong trào đấu tranh cho Nhơn quyền vẫn chưa rầm rộ, trái lại phong trào yêu nước càng ngày càng dâng cao, Trung Cộng càng làm nhục ta, lòng dân càng bất mãn. Bất mãn Tàu chưa đủ, phải bất mãn cả với Việt Cộng đã quá hèn kém, không bảo vệ được đất nước, không bảo vệ được dân, để dân ta bị nhục.
Mong rằng nỗi nhục sẽ đưa đến đấu tranh đòi Nhơn quyền, đòi Dân chủ lật đổ Cộng quyền.

Hồi Nhơn Sơn, tháng tư đau nhục 2013.
Phan Văn Song

Hãy Trân Trọng Ý Nghĩa Quốc Hận 30 Tháng Tư

TS Phan Văn Song



1. Ngày Quốc Hận là một Biểu Tượng
Ngày 30 tháng Tư năm 2013 tới đây, chúng ta người Việt Hải Ngoại và một số đông người trong nước cùng kỷ niệm Ngày Tang, Ngày Quốc Hận 30 tháng Tư, vì Quốc Hận là một Biểu Tượng, một Ngày Tang Lớn cho lịch sử cận đại của Quốc Gia Việt Nam và Dân tộc Việt Nam   
30 tháng Tư năm 1975, quân đội Cộng sản Bắc Việt tràn vào thủ đô Sài gòn. Và ngay ngày ấy, để đánh dấu rằng “họ đã thắng trận”, đã dùng xe tăng ủi sập Dinh Độc Lập, biểu tượng cơ quan lãnh đạo hành chánh tối cao của chế độ và chánh quyền Việt Nam Cộng Hòa.
Biểu tượng hàng đầu của một chế độ bị ủi sập! Lúc bấy giờ Tổng thống Dương Văn Minh và tất cả nội các của chánh phủ cuối cùng của Việt Nam Cộng Hòa đã lên tiếng kêu gọi toàn thể Công Dân Cán Chánh Cán Việt Nam Cộng Hòa bỏ súng ngưng chiến, ở tại chỗ, chờ “người anh em phía bên kia” đến đế tiếp thu cơ sở và dụng cụ, để trao quyền quản trị, trong trật tựkhông hỗn loạn. Dinh Độc Lập lúc bấy giờ, cũng như bao cơ sở hành chánh đều mở cửa, mở rào, mở cổng, chờ đón quân đội “phe thắng trận” đến tiếp thu.
Đó là một cử chỉ của một chế độ văn minh. Buông súng không đánh nhau, nhưng vẫn ở tại chỗ, không rã ngũ, tan hàng, giữ trật tự, để tránh những cướp bóc, hôi của, trả thù cá nhơn giữa những láng giềng với nhau. Giữ trật tự, an ninh xã hôi để không có những nạn nhơn giờ “thứ 25”! Nhờ vậy quân đội Cộng sản Bắc Viết tiến vào Sài gòn trong một không khí khá yên ổn. Khác với những cuộc chiến khác ở nhiều quốc gia trên thế giới. Một thí dụ gần đây thôi, ngay ngày đầu tiên khi quân đội Mỹ vào thủ đô Bagdad, dân chúng Bagdad xuống đường hỗn loạn, giết nhau, ăn có, hôi của, cướp của. Thừa nước đục thả câu, Viện Bảo tàng Quốc gia Irak bị dân chúng ùa vào cướp của. Những kỷ niệm, những bảo vật, tài nguyên quốc gia, trưng bày đều bị ăn cắp. Miễn có tý đá quý, miễn có tý vàng tý bạc,  đều bị dân chúng cướp sạch, ngày nay gia tài cổ lịch sử của Irak, một trong những cái nôi văn minh của nhơn loại vẫn chưa hoàn toàn tìm lại đầy đủ. Trái lại, lúc bấy giờ, mặc dù trong tình trạng hỗn quân, hỗn quan, dân chúng Sài gòn, quê hương chúng ta,  tuy cũng có những người nghèo vậy, thậm chí nghèo lắm, nhưng, không một vụ cướp bóc, hôi của, cướp của, hay có chăng thì chắc chắn là rất hiếm vì không nghe một ai nói đến. Quân lực Việt Nam Cộng Hòa vâng lệnh Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa, mặc dù mới được lãnh nhiệm vụ, vẫn kỹ luật quân đội, vẫn hệ thống quân giai, vâng lệnh, phục tòng, vì đấy là lệnh của vị Tổng Tư lệnh tối cao của mình, đã buông súng, không đánh nhau nữa. Các cổng, các cửa, các ngõ của các cơ quan rộng mở, chờ Quân đội phe thắng trận tiếp thu. Tại sao xe tăng quân đội Cộng sản ủi sập rào Dinh Độc Lập? Nếu không, chỉ để làm nhục?
Đấy là một cử chỉ thiếu Văn Minh. Hay đúng hơn thiếu Văn Hóa! Một cử chỉ của một nhóm người Thất Học!
Đừng trách anh trưởng xa chiến xe tăng ủi sập rào Dinh Độc Lập! Anh trưởng xa chỉ “thiếu tư cách người tử tế” thôi, và, người viết chúng tôi thông cảm, vì chúng ta không thể đòi hỏi một anh nông dân thiếu học, không đủ trình độ văn minh, vì không được huấn luyện,  hiểu được những cử chỉ “anh hùng mã thượng” (gentlemen) hiểu được cái dũng, cái hùng, nhưng vẫn mã thượng của một người sĩ quan, của một người lãnh đạo đoàn thể (leadership), như các sĩ quan của Quân lực Việt Nam Cộng Hòa đã được huấn luyện qua các quân trường miền Nam. Nhưng tôi chê trách những người lãnh đạo chế độ Cộng sản, Nhà cầm quyền nước Việt Nam. Từ ngày ấy đến nay, vì mãi đến những ngày sau và mãi đến cả ngày nay, không một vị lãnh đạo nào của chế độ Cộng sản, phe thắng trận, kẻ toàn thắng, được vinh quang trong chiến thắng, nói một lời gọi là “Phải chăng”! “Phải Đạo”! Đó là một cử chỉ thiếu Văn Minh do một Não trạng kém Văn Hóa.
Đó là lý do tại sao Ngày 30 tháng Tư là Ngày Quốc Hận.
Hai địch thủ đánh nhau, thắng thua là chuyện thường tình. Nhưng kẻ thắng người thua vẫn phục nhau, vẫn nể, vẫn trọng nhau. Nội chiến Bắc Nam Mỹ chẳng hạn, khi quân đội miền Nam thua trận, tướng miền Bắc cấm các chiến sĩ miền Bắc không được reo hò, cổ vũ, trân trọng chào các người thua trận, giúp đỡ họ, chia lương thực với họ. Trả lừa, trả ngựa, giúp họ trở về  quê quán với gia đình, có lừa có ngựa để cày để cấy, làm ăn. Quân đội miền Bắc nước Mỹ không làm nhục quân đội miền Nam nước Mỹ. Đó là chuyện Tây. Còn chuyện Ta, trong lịch sử Việt Nam, Vua Lê Lợi khi thắng trận giúp đỡ cho binh sĩ, quân lính nhà Minh trở vế Tàu. Sau trận Thế chiến 2 quân đội Đức thua trận giải ngũ được phe đồng minh thắng trận giúp đỡ trở về quê quán làm ăn, xây dựng lại cuộc đời. Quân đội Nhựt thua trận cũng vậy, cũng được đối đãi tử tế!  Dĩ nhiên quân đội đồng minh thắng trận chiếm đóng Đức quốc, quân đội Mỹ chiếm đóng nước Nhựt. Họ còn chia nước Đức thành 4 vùng quân quản do quân đội 4 quốc gia thắng trận quản trị điều hành. Dĩ nhiên các tướng lãnh và sĩ quan cao cấp quân đội Đức, vì có tội diệt chủng, đều bị đưa ra Tòa án Nuremberg xử. Luật Pháp, Công lý nhưng đối xử Văn Minh. Và phe Đồng Minh đứng đầu là Huê Kỳ đã xây dựng lại nước Đức thua trận, mặc dù Đức có tội diệt chủng, có tội ác nhơn loại. Và nước Đức nhờ chương trình tái tạo giúp đỡ Marshall ấy đã trở thành một cường quốc Âu châu! Đó là một đối đãi văn minh giữa người thắng trận đối với người thua trận, tuy giữa hai quốc gia khác nhau.
Đằng này, cùng dân Việt Nam, cùng nghĩa đồng bào, thế mà khi Bắc Việt thắng trận đối với Nam Việt, Bắc Việt quyết tâm hạ nhục toàn thể quân dân cán chánh của phe thua trận, đã đành Bắc Việt còn hành hạ, làm nhục đến cả gia đình họ và thậm chí cả đến người dân của cả miền Nam Việt Nam. Xem toàn thể dân miền Nam đều là kẻ thù! Không phải ngẩu nhiên mà dân chúng miền Nam Việt Nam liều chết vượt biên, vượt biển, đi tìm Tự do. Trong 3 người đến bến Tự do, thống kê đoán có thể có 1 người đã chết! Như vậy, ngày nay tại Hải ngoại với 3 triệu người tỵ nạn, chắc phải có 1 triệu người làm mồi cho cá, cho hải tặc…Vì vậy 30 tháng Tư chỉ phải là Quốc Hận thôi !.
Đó là một Biểu Tượng, Để nhớ, để không quên và không bao giờ quên. Đó để làm Một Bổn Phận để Không Quên, để Nhớ – Un Devoir De Mémoire.   
2. Ngày Quốc Hận, một nhức nhối trong chiến thắng Cộng sản
Bộ  máy tuyên truyền của Đảng Cộng sản Việt Nam muốn ngày 30 tháng Tư là Ngày Cách Mạng thành công, Ngày Giải Phóng toàn dân Việt Nam khỏi …. nhưng đến đây nghẹn họng. Giải Phóng Việt Nam khỏi cái nghèo ư? Không, ngày quân Cộng sản chiếm Sài gòn, Cộng sản đề nghị một mô hình kinh tế tệ hại hơn lúc xưa. Dân Sài gòn suốt đời không biết sắp hàng, không biết phiếu thực phẩm, không biết ăn cơm trộn sắn, không biết bo bo, không biết nghèo, không biết đói… Lúc xưa có nghèo, có cực thiệt ra cũng có,  chứ sắp hàng mua cá “sô”, mua thực phẩm thật là chuyện lạ. .. Giải Phóng Việt Nam khỏi cái kềm kẹp …Mỹ Ngụy ư ?? Lúc xưa khi Mỹ Ngụy kềm kẹt, Sài gòn vẫn có biểu tình, vẫn có đình công đòi chủ tăng lương, báo chí có kiểm duyệt “tự ý đục bỏ” nhưng rất nhiều, hay phần đông báo chí là của  tư nhơn … Báo chí tư nhơn, ký giả tự do nhiều đến nổi có cả báo chí, có cả ký giả “thân Cộng” nữa!
Vì đó, Đảng Cộng sản chỉ muốn Ngày 30 tháng Tư không được gọi là Ngày Quốc Hận nữa. Bằng mọi giá phải xóa bỏ tên nầy. Và tuyên truyền Đảng Cộng sản qua Nghị quyết 36,  bắt đầu láo lếu…Thế nhưng, cũng do đó mà  đã 38 năm qua, tên “Ngày Quốc Hận” vẫn được một số đông đồng bào Hải ngoại và một số không ít người trong nước tiếp tục dùng cho kỷ niệm ngày 30/04 hằng năm, vẫn gọi và tiếp tục gọi, mặc dù có những âm mưu, có thể trong một tinh thần “ngây thơ” nào đó, muốn “xóa bỏ hận thù”, “hòa hợp hòa giải” “hàn gắn” đổi tên Ngày 30 tháng Tư. Và cũng vì vậy, người viêt  vốn “đi đêm sợ ma”, “chim khôn sợ ná” chúng tôi vẫn không tin những gì Việt Cộng nói, vì tôi chỉ nhìn những gì Việt Cộng làm.
Do đó, ngày hôm nay, mặc dù các đại diện đương quyền Cộng sản cùng các đồng bọn phe cầm quyền, và cả đại diện những phe “vệ tinh nhà cầm quyền” cùng đứng lên, gọi là tỉnh ngộ, gọi là hiểu được lòng dân, dựng lên một Phong trào “Cải tổ Hiến Pháp”,  mặc dù  có vẽ lên cái giải pháp gọi là  tiến bộ, gọi là cởi mở, gọi là dân chủ là “Bãi bỏ Điều 4: mặc dù nhứt định không nói tới cái câu “Đảng ta, Đảng Cộng sản phải cầm quyên” đi chăng nữa, thì cái giải pháp cải tổ Hiến Pháp cũng không trả lời được nguyện vọng thực sự của toàn dân!
Vì cái Quốc hội, cái cơ quan dùng để bỏ phiếu đó; cái Quốc Hội, cái cơ quan dùng để giải quyết cái “cải tổ Hiến pháp” đó, nó Bất Chánh. Chúng tôi không dám gọi là “Vi Hiến”.
Vì cái cốt lõi, cái bản chất thực sự của bản Hiến Pháp, và tất cả những Hiến Pháp của tất cả những chế độ Việt Nam Cộng sản đều Vi hiến cả!. Vi Hiến bởi vì không được một quốc hội thật sự dân chủ (gồm các đại diện được toàn dân bầu lên, các đại diện phải được phản ảnh toàn bộ các thành phần của dân chúng, từ các thành phần giai cấp, đến sắc tộc, giáo phái, hội đoàn, đảng phái…) bỏ phiếu chấp thuận. Cha mẹ không có căn cước lý lịch đàng hoàng chánh thống, thì đứa con, sản phẩm làm sao có chánh thống.
Từ ngay những ngày đầu năm 1945 với Hiến Pháp 1946 đến ngày nay, qua hai chế độ Việt Nam Dân Chủ Cộng hòa và Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam tất cả đều do phe Cộng sản chủ mưu độc diễn, độc thoại, độc tài, độc quyền. Vì Tòa đại diện dân là Quốc hội, không chánh thống, vì không phải do toàn dân bầu mà chỉ một bộ phận nhỏ được chỉ định bầu thôi, bộ phận do Đảng Cộng sản chi phối và chỉ đạo. Vì không chánh thống nên không được hợp pháp dân chủ. Quốc hội ấy đẻ ra Hiến Pháp ấy, và nay, cũng một lò, lại Quốc hội ấy lại sẽ đẻ ra một Cải tố Hiến Pháp để cho ra lò một cái Hiến Pháp mới! Thật là quanh quẩn chỉ là một Con rắn đang tự nuốt cái đuôi của mình! – C’est un serpent qui se mord la queue!
Và do đó, ngày hôm nay, dù quý vị ở  Hải ngoại có thành tâm, có thiện chí, hay “ngây thơ” đi tìm một giài pháp để hạ căng thẳng? Ðể người dân trong ngoài nước dễ nói chuyện với nhau? Nên có những đề nghị thay tên gọi Ngày 30 tháng Tư, có kẻ đề nghị gọi là Ngày Tự Do, lại có người đề nghị gọi là Ngày Thuyền Nhơn? Còn có cả những người muốn biến Ngày 30 tháng Tư làm một Ngày Riêng biệt cho Miền Nam! Vận động nhờ Quốc hội Mỹ ra Nghị quyết gọi “Ngày Nam Việt Nam”! Nhưng để làm chi vậy?  
Có lẽ, họ SỢ cái tên “QUỐC HẬN”?  – vì không thích cái chữ “Quốc Hận”? –  hay SỢ đến không dám nói, đọc, nghĩ đến chữ “Quốc Hận”?  Có phải chăng vì
Ngày 30 tháng Tư là một Ngày Tang cho tất cả dân Việt Nam? Nên mới là Ngày Quốc Hận!
3. Ngày 30 tháng Tư cũng là ngày mà cả NướcViệt Nam bị lường gạt?
Dân miền Bắc đã đành! vì “cá nằm trong rọ”, tuổi già bị đấu tố, tuổi trẻ thanh niên thanh nữ bị nướng trên đường mòn Trường Sơn, sanh Bắc tử Nam, bị hy sanh, cho chế độ, vì chế độ! Độc tài, khát máu đã đành, còn nói láo, nói dối,  rằng phải Giải Phóng miền Nam, cứu đói miền Nam, nuôi dân miền Nam… Nhưng khi vào đến Nam rồi thì hởi ôi! muộn rồi, khi biết được, hiểu được rằng mình bị gạt bèn, hoặc có người, thì ngồi khóc cho thân phận khốn nạn bị lường gạt mất cả tuổi thanh xuân (Dương Thu Hương), hoặc có kẻ, thì trước hay sau gì một thời gian, ngắn dài nào đó, nín thở qua sông, cũng phải …  tỉnh ngộ (Bùi Tín, Võ Nhơn Trí, Vũ Thư Hiên, Trần Độ, Nguyễn Văn Trấn, Tô Hoài …từ những lớp cán bộ đảng viên già đến những cán bộ đảng viên trẻ, hay cả những người trẻ đấu tranh dân chủ ngày nay).
Nhà cầm quyền Việt Cộng trong nước muốn Ngày 30 tháng Tư là Ngày Đại Thắng Mỹ.
Nhưng Sai! Láo! Ngày hôm ấy làm gì còn có quân  đội Mỹ mà thắng!
Ngày 30 tháng Tư quân đội Cộng sản Bắc Việt không có thắng quân đội Mỹ. Hiệp đinh Paris ngày 23 tháng Giêng 1973 đã kết thúc chiến tranh Việt Nam. Quân đội đồng minh của Việt Nam Cộng Hòa và quân đội Mỹ không còn có mặt ở Việt Nam bắt đầu từ ngày ấy rồi. Ngày 30 tháng Tư, chỉ là ngày Bắc Việt nuốt lời ký kết Hiệp định Paris: “là đình chiến tại chỗ, là ai ở tại chỗ đó, không thêm vũ khí không thêm quân và ngưng bắn…”, xua quân ồ ạt cưỡng chiếm Nam Việt. Ngày 30 tháng Tư là ngày toàn bộ Dân tộc Việt Nam bị lường gạt, nhưng dân chúng Nam Việt là những nạn nhơn nặng nhứt. Bằng chứng nếu thật sự Giải phóng Miền Nam đang bị Mỹ kềm kẹp tại sao phải bắt giam quân dân cán chánh, nhơn viên chánh quyền miền Nam? Nếu đó là một chánh quyền bị cầm kẹp?. Tại sao phải đuổi người dân đi về nông thôn, giải tỏa thành phố, hành hạ dân chúng các thành phố? Có phải là sợ dân thành phố nổi loạn chăng? Giải Phóng? Không, đúng hơn Xâm chiếm
Trong lịch sử cận đại Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam đã hai lần lường gạt dân.
Lần thứ nhứt, nói: “Ngày 2 tháng 9 là Ngày Cướp Chánh quyền, lấy lại Độc lập từ Pháp”. Sai!  Hô Chí Minh và đồng bọn đã cướp chánh quyền chánh thống từ tay Vua Bảo Đại.  Nhà Nguyễn đã lấy lại Độc lập, sau khi chế độ thực dân Pháp đã bị sụp đổ. Chế độ Thực dân Pháp đã sụp đổ ngay khi trục Nhựt – Đức – Ý, thắng quân Anh – Pháp năm 1940. Nhựt đã chiếm và kiểm soát toàn cỏi Đông dương rồi, nhà cầm quyền Pháp sở tại là thuộc chánh phủ bại trận Pháp là Nhà nước Vichy, làm tay sai cho giặc ở Âu Châu với Đức và ở Đông dương với Nhựt. (Gọi Chánh quyền Vichy vì cơ quan hành chánh trung ương của Thống chế bại trận Pétain đặt tại thành phố Vichy – thủ đô Paris của Pháp bại trận đặt dưới quyền quân quản của Quân đội Đức). Như vậy không phải chỉ sau ngày 9 tháng 3 năm 1945, quân đội Nhựt mới làm chủ Đông dương (xin nhắc lại một lần nữa là chế độ thuộc địa Pháp đã mất quyền từ năm 1940). Sau ngày 9 tháng 3 năm 1945, vì toàn quyền Đông dương đã mất chức. Nhựt Bổn không có ý định xâm chiếm Đông dương thay thế Pháp, nên đã đề nghị trả Độc lập cho Vua Bảo Đại. Đó là chánh thống, Pháp cướp Việt Nam trong tay Nhà Nguyễn, nay Nhà Nguyễn lấy lại Độc lập cho Việt Nam vì Việt Nam ngày ấy không còn chánh quyền nữa. Chẳng những lấy lại Độc lập Vua Bảo Đại còn tuyên bố bãi bỏ mọi Hiệp Ước ký kết với nước Pháp lúc xưa. Bằng lời tuyên bố trên bằng hành động trên Vua Bảo Đại đã lấy lại chủ quyền cho Việt Nam ngày 10 tháng 3 năm 1945. 
Ngày 2 tháng 9 năm 1945, Việt Minh cướp chánh quyền Vua Bảo Đại và Chánh phủ Trần Trọng Kim.
Lần thứ hai là Ngày 30 tháng Tư năm 1975, Bắc Việt đơn phương xé bỏ Hiệp định Paris cưỡng chiếm miền Nam.
Vì  những lý do trên, chúng ta không thể thay tên đổi tánh Ngày Quốc Hận 30/4  được! Cũng như dân Do Thái với Shoa, hay Holocauste, hằng năm họ tưởng nhớ đến những năm tháng dân Do Thái ở Âu Châu bị NaZi Quốc Xã tàn sát. Dân Do Thái nhớ ngày Shoah. Lễ Tang Shoah để không quên 6 triệu người Do Thái bị giết. Chúng ta cũng không bao giờ quên Ngày Quốc Hận 30/4.
Cũng như các dân Do Thái không quên chiếc thuyền Exodus đưa họ hồi hương, dân Huê Kỳ nhớ ơn chiếc Thuyền Mayflower đưa họ đến đất Mỹ. Chúng ta dân Việt Nam Hải ngoại tỵ nạn Cộng sản cũng sẽ không quên làm lễ Tạ Ơn Ngày Thuyền Nhơn, nơi đây, cộng đồng tỵ nạn Đức không quên thuyền Cap Adamur ; nơi kia, cộng đồng tỵ nạn ở Pháp không quên thuyền Ile de Lumière – Đảo Ánh Sáng…Tất cả vì  Bổn phận Không Quên – Devoir De Mémoire.
Và  cũng vì Bổn Phận Không Quên – Devoir de Mémoire.
Ngày Quốc Hận mãi mãi sẽ là Ngày Quốc Hận,
Mãi mãi trong Trí nhớ của người Việt Nam muôn thuở,
Đời đời, mãi mãi, Ngày Quốc Hận sẽ ghi trong lịch sử Việt Nam
Để không bao giờ tái diễn nữa.
Hồi Nhơn Sơn, tháng tư đen thứ 38. 15/04/13
TS Phan Văn Song