29.5.13

Công an tiết lộ bí mật Bác Hồ

Công an tiết lộ bí mật Bác Hồ



Ông trời có mấy chân?

Một đám công an đang ngồi tán gẩu với nhau,một thằng hỏi:
-không biết ông giời(trời) có mấy chân chúng mầy nhỉ?
Một thằng nhanh nhẩu trả lời
-Sao mầy ngố thế,giời có 4 phương  ,đông , tây,nam,bắc.Vậy thì giời có 4 chân.
Thằng khác phản đối:
-Người ta hay nói 4 phương 8 hướng , vậy thì ông giời có 8 chân
Một thằng có vẽ thâm niên nhất trong bọn , lên giọng quả quyết:
-Ông giời chỉ có 2 chân, chúng mày ạ . Tao chắc chắn như thế.Đánh cuộc cái gì tao cũng đánh
Cả đám nhao nhao lên
-Ai nói mà mày chắc chắn thế
Thằng nọ chẩm rải giọng kính trọng:
-Bác Hồ
Nghe nói đến Bác Hồ, chẵng ai bão ai,đứa nào đứa nấy êm thinh thích chẳng dám cải
Một đứa lên tiếng hỏi vẽ rụt rè:
-Thế mày nghe Bác nói lúc nào thế ?
Thằng lúc nảy hạ giọng , vẽ bí mật!
Lúc Bác còn sống, tao ở trong đội bảo vệ Bác , nên có nhiệm vụ canh gác trước cữa phòng cũa Bác. Bác hay thức khuya làm việc.Thấy mà tội nghiệp cho Bác lắm chúng mày ạ.Có 1 đêm giời không có giăng( trăng) tối như mò đến phiên tao gác,tao nghe tiếng bác thì thầm, ở trong phòng hình như đang nói chuyện với ai
Giọng Bác đêm hôm đó nghe lạ lắm, vừa cảm động, vừa bức xức, lại vừa run rẩy nữa.........
Cả bọn vừa hồi hộp , tranh nhau hỏi:
-Thế Bác nói cái gì? Mầy nói nhanh lên.
Bác nói ;"Ối giời ơi, banh hai cái chân ra........"

  Công an Tự do

26.5.13

Về thành quả đấu tranh 38 năm qua

Về thành quả đấu tranh 38 năm qua



Từ gần một năm qua nhiều sự kiện liên quan đến Việt Nam (tình hình ở VN, chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ, nội tình cộng đồng người Việt hải ngoại, v. v…) đã tác động không ít đến cộng đồng người Việt quốc gia tại hải ngoại.

Nổi bật nhất là chuyến viếng thăm Hoa Kỳ vào mùa thu 2012 của một viên chức ngoại giao cao cấp của chính quyền cọng sản Việt Nam. Thông tin này không có gì đáng nói cho đến khi viên chức ấy đến thành phố Houston thuộc tiểu bang Texas theo lời mời của bà Thị trưởng thành phố này. Chuyến đi này nằm trong khuôn khổ phát triển quan hệ kinh tế và thương mại giữa Houston và Việt Nam và cũng để chuẩn bị dự án kết nghĩa chị em giữa Houston và Đà Nẵng, một dự án đã được bàn thảo trước đó vài tháng giữa thị trưởng 2 thành phố .

Tại đây, việc tiếp đón và sắp xếp chương trình làm việc của viên chức ngoại giao VN được Nghị viên Hoàng Duy Hùng (HDH) đảm trách. Xin nhắc lại ls HDH là nghị viên gốc Á châu duy nhất (và lại là người Việt Nam) trong Hội Đồng thành phố Houston và là thành viên Tiểu ban Quan hệ Quốc tế của HĐTP.

Ngoài những tiếp xúc thuần túy ngoại giao và quan hệ đối tác, thể theo yêu cầu của viên chức ngoại giao VN, Hội đồng thành phố đã tạo cơ hội cho ông ta gặp một số nhân sĩ và thương nhân gốc Việt của Houston. Tiếp theo chuyến viếng thăm ấy, đáp lời mời của Bộ Ngoại Giao VN, nghị viên HDH đã dẫn đầu một phái đoàn của thành phố  Houston lên đường đến VN vào đầu năm 2013.

Điều gây sự chú ý của mọi người là ls HDH cũng là một người tích cực đấu tranh chống chế độ cộng sản tại Việt Nam từ nhiều thập niên. Trước đây, ls HDH từng cho biết đường lối đấu tranh mới của ông là đối thoại trực diện với chính quyền cộng sản VN. Ông đã khẳng định điều đó khi trả lời báo chí trong và ngoài nước trong chuyến đi Việt Nam vừa qua.

Trong bối cảnh trên, những chuyển biến trong cộng đồng người Việt quốc gia tại hải ngoại hiện lên rõ nét. Cùng lúc, những sự kiện vừa kể đã châm ngòi cho những tranh luận gay gắt về nhiều vấn đề chung quanh công cuộc đấu tranh chống chính quyền cộng sản tại Việt Nam kèm theo một loạt phản ứng trong cộng đồng người Việt quốc gia tại Hoa Kỳ và cả ngoài nước Mỹ.

Những phản ứng ấy được thể hiện dưới nhiều hình thức và nội dung khác nhau.

Về hình thức, phổ biến nhất là những cuộc hội luận thông qua các hệ thống truyền thông và những ý kiến, phát biểu trên các diễn đàn mạng. Không ít khi những tranh luận đó biến thành tranh cãi, đả kích và có cả vài việc làm mang tính bạo động. Ngoài ra còn có những tin đồn khó kiểm chứng được rĩ tai giữa một số cá nhân và tổ chức rồi lan ra khắp cộng đồng.

Về nội dung, người ta thấy có nhiều ý kiến nghiêm chỉnh và đứng đắn, thường đến từ những người thật sự quan tâm đến tương lai cộng đồng và tiền đồ đất nước. Họ tranh luận, đặt dấu hỏi về một đường hướng đấu tranh hiệu quả. Nhưng tiếc thay cũng có những chỉ trích, thậm chí phỉ báng, cáo buộc hoặc tung tin gây nghi kỵ, hoang mang trong cộng đồng.

Dù vì bất cứ mục đích gì, loại phản ứng ấy hoàn toàn không có lợi cho hoạt động đấu tranh của người Việt quốc gia. Người viết bài này thiết nghĩ chúng ta cần hiểu và biết những gì đang lưu thông trong không khí mà mọi người trong cộng đồng đang hít thở để cùng suy ngẫm.

Cụ thể hơn, xin mạn phép nêu lên một phát biểu từ Houston. Tuy từ miệng một cá nhân nhưng chắc chắn đó cũng là ý nghĩ của một vài nhóm hay tổ chức nào đó trong cộng đồng. Mặc dù nhắm vào một cá nhân, việc làm ấy mang tính cách những cáo buộc, điển hình trong cuộc tranh cãi kịch liệt đang diễn ra trong các cộng đồng người Việt về đường hướng đấu tranh của người Việt hải ngoại.

Nội dung các cáo buộc đó như sau:

Tháng 3 vừa qua, ông HDH về Việt Nam không phải để đại diện cho thành phố Houston mà hoàn toàn vì mục đích cá nhân.  Người cáo buộc khẳng định là ls HDH đã bàn bạc với phía VN để chuẩn bị mở một văn phòng dịch vụ pháp lý tại Houston để độc quyền giải quyết hồ sơ tài chính và di trú cho những đại gia trong nước.

Việc ls HDH chọn phương thức đấu tranh mới (đối thoại trực diện) và tiếp xúc với nhà cầm quyền cọng sản VN là “chà đạp lên thành quả 38 năm đấu tranh chống cọng sản của cộng đồng người việt quốc gia tại hải ngoại”.

Điều cáo buộc thứ nhất có vẻ nhằm hạ uy tín cá nhân. Do đó người viết bài này không thấy cần thiết phải bình luận vì những lời kết tội đó rất mơ hồ. Không những cho đến nay người cáo buộc vẫn không đưa ra được một chứng cớ nào mà cộng đồng cũng không thấy có dấu hiệu gì để kiểm chứng tin đồn ấy. Người viết bài xin dành trách nhiệm chứng minh cáo buộc thứ nhất lại cho tác giả của nó, cho dù đó là một cá nhân, một nhóm hoặc một tổ chức. Sau đó xin để cộng đồng phán xét dụng ý của những tác giả tung tin.

Điều mà chúng ta cần quan tâm suy nghĩ là cáo buộc thứ hai. Bài viết này không có tham vọng biện hộ cho bất cứ ai. Do tác giả lời cáo buộc khẳng định có sự “chà đạp lên thành quả 38 năm đấu tranh của cộng đồng người Việt quốc gia” nên người viết bài cảm thấy, vì nhu cầu thông tin, có trách nhiệm phải lên tiếng.

Đây quả là một đề tài vừa gai góc vừa cốt lõi nên chúng ta cần phân tích và xác định thật chính xác cái được gọi là “thành quả của 38 năm đấu tranh”.

Nói về đấu tranh chống chính quyền cộng sản tại Việt Nam thì không ai phủ nhận là 38 năm qua, người Việt ở hải ngoại đã đấu tranh một cách rất tích cực. Cuộc đấu tranh đó được thực hiện liên tục với 3 thành phần:

Thứ nhất là thành phần đấu tranh bằng tim óc. Đại diện cho thành phần này gồm có Liên Minh Dân Chủ VN do cố GS Nguyễn Ngọc Huy sáng lập, Cao Trào Nhân Bản của bs Nguyễn Đan Quế (đại diện tại Hoa Kỳ là bs Nguyễn Quốc Quân), Uỷ Ban Tranh đấu Nhân Quyền, Mạng Lưới Nhân Quyền VN, v.v. và v.v.…

Thứ hai là thành phần đấu tranh ồn ào, sôi nổi, bằng biểu tình, kiến nghị, cáo buộc, v.v.…

Thành phần cuối là loại đấu tranh “mượn hoa cúng Phật”, dùng hàng động gọi là đấu tranh để lừa bịp công luận làm mất lòng tin vào chính nghĩa của những ai có tâm huyết.

Nói đến thành quả đấu tranh thì thành phần thứ nhất là những cá nhân, tổ chức hoặc đảng phái đứng đắn và có trách nhiệm, chắc chắn họ có thể xác định được 38 năm qua những hình thức họ xử dụng đã mang lại thành quả gì.

Thành phần thứ hai, thường là những gương mặt hoặc tổ chức đã quen thuộc hoặc chưa, nhưng họ cần được biết đến. Ngoài việc xử dụng những hình thức ồn ào, phần lớn họ thường hành động tự phát, ít có tổ chức ăn sâu trong cộng đồng, nhằm đối phó nhất thời với thời sự nên e rằng việc tính sổ thành quả có phần khó khăn hơn.

Riêng thành phần thứ ba, vì không cùng mục đích đấu tranh với đại đa số trong cộng đồng nên thành quả nếu có, cũng không chắc là phù hợp với mong đợi của những người đấu tranh chân chính.

Tóm lại, trên thực tế, với tất cả sự khách quan của người viết bài, dù lạc quan bao nhiêu, cũng khó tìm thấy kết quả nào đáng ghi nhận sau 38 năm đấu tranh.

Về điểm này, xin mạn phép nhắc lại một trong số nhiều ý kiến trên các diễn đàn. Qua điện thư dưới tựa đề “Xin lời Giải đáp”, một vị đã viết trên diễn đàn mạng như sau:

 “Sau 38 năm chống cộng bằng Kiến Nghị, Thông cáo, Thông Tư , Biểu Tình, v.v.  của Cộng Đồng Người Việt hải ngoại mà không có tác dụng, ta có nên thay đổi Phương Thức Hành Động không ? Câu trả lời là CÓ hoặc KHÔNG (Tôi có thể đóan trước rằng 99% câu đáp là CÓ).” (trích ông TDT)

Không những khẳng định là những phương thức đấu tranh trong 38 năm qua “không có tác dụng”, ông TDT còn quả quyết là đa số người Việt hải ngoại sẽ chọn lựa “thay đổi Phương Thức Hành Động” (trích và viết hoa trong điện thư của tác giả).

Như vậy, nếu sau 38 năm đấu tranh mà không có kết quả đáng kể, “không có tác dụng”, thì làm sao có ai có thể “chà đạp lên thành quả đấu tranh” như lời cáo buộc thứ hai trên đây? Loại cáo buộc ấy cho người ta có cảm tưởng là tác giả (và những người hoặc tổ chức nhân danh "38 năm đấu tranh") dùng mọi phương tiện để chống phá và kết án bất cứ ý kiến hoặc khuynh hướng đấu tranh nào khác ý họ. Nhân danh lập trường đấu tranh cho dân chủ tại VN, họ khư khư giành độc quyền quyết định phương thức đấu tranh của người Việt tại hải ngoại.

Cũng như nhận xét của vị cư dân mạng trên đây, người viết bài xin kết luận bằng nhận định sau đây:

Trong lúc mưu cầu sự sống trên các đất nước tự do, những cộng đồng người Việt quốc gia tại hải ngoại đã làm tất cả những gì có thể làm được mà kết quả lại rất khiêm tốn. Đó có thể là một trong những lý do khiến họ mệt mõi. Thêm vào đó phần lớn thế hệ 1975 dần đi vào tuổi không còn hoạt động được nhiều nữa.

Do đó, công cuộc đấu tranh này, bất cứ ai quan tâm và lo lắng cho tương lai của đất nước, nhất là những thế hệ kế tiếp, cần nối gót để đạt đến thành công, tiếp tay mang đến dân chủ, tự do và công bình cho quê hương Việt Nam.

Do tiếp cận với xã hội mới và trong thời thế hôm nay, những người đấu tranh trẻ sẽ có những sáng kiến mà người ta không có trong hoàn cảnh của 38 năm qua. Ngoài ra, nếu đấu tranh suốt 38 năm mà không có kết quả đáng kể thì sẽ bất công biết bao nhiêu nếu chúng ta đòi hòi thế hệ trẻ phải chứng minh ngay là họ sẽ thành công trong phương hướng mới mà họ chọn lựa.

Vì vậy thay vì nghi ngờ, chỉ trích, cáo buộc, tẩy chay, ở cương vị của những người đi trước thái độ đúng đắn nhất là Khuyến khích và Hổ trợ. Việc thành công hay thất bại, thành công sớm hay muộn còn tùy thuộc vào nhiều yếu tố. Điều quan trọng là người đi trước và kẻ đến sau cần đoàn kết, chấp nhận khác biệt, phối hợp và chia xẻ kinh nghiệm trong công cuộc đấu tranh chung. Có như vậy may ra con đường đấu tranh trong tương lai mới đưa đến kết quả nào chăng ?

24.5.13

BÀI THƠ KHÔNG TỰA

BÀI THƠ KHÔNG TỰA


 
tự do như muối
hạnh phúc như đường
khi còn đang ăn đủ miếng ngọt miếng ngon
khó thấy giá trị của hạt đường hạt muối.
tôi sống ở Miền Nam
nhìn dòng đời trôi nổi
nở lại tàn
bao nhiêu mùa hoa
hai nền Cộng Hòa
một cuộc chiến tranh dài đẫm máu.


tôi đã dốc lòng chiến đấu
bảo vệ tự do
dưới lá cờ
nền vàng ba sọc đỏ

tiếc thay trong đội ngũ
chúng tôi có ít những Ngô Quang Trưởng, Nguyễn Khoa Nam
mà lại khá nhiều Nguyễn Vĩnh Nghi, Nguyễn Văn Toàn
nên lính mất niềm tin
dân chán nản
những kẻ có lòng
lắc đầu ngao ngán.
rồi nước Mỹ đồng minh, xưa là bạn
nay trở mặt lọc lừa
quên lời hứa năm xưa
bỏ mặc “tiền đồn của thế giới tự do”
thất thủ.

kẻ thù đưa tôi lưu đày biệt xứ
rồi khua chiêng gióng trống ăn mừng
đám trí thức, sinh viên, học sinh
xưa trốn vô bưng
mơ một thiên đường trên trái đất
nay ngồi trên khán đài nghếch mặt
“Thiên đường đang ở trong tầm tay”
Má Hai
xưa đào hầm nuôi cán bộ
nay hớn hở
“Tụi nó dzià mình chắc có tương lai”
bà Tám con chết trận Đồng Xoài
hãnh diện lãnh bằng gia đình liệt sĩ
những nhà văn, nhà thơ, xưa chống “cuộc chiến tranh phi lý”
(đâm sau lưng người lính Cộng Hòa)
nay chìa bút ra
xin viết bài ngợi ca chế độ mới
đám thanh niên xưa trốn chui trốn nhủi
ở hậu phương
xanh mặt khi nghe nhắc tới chiến trường
nay tự nhận đã yêu thầm cách mạng
những người dân bình thường
xưa gặp lính khi ghét khi thương
lúc buồn ngồi chửi đổng
“Tao chửi cả thằng Tổng Thống
xá gì lính tráng tụi bay”
nay cũng ngập ngừng vỗ tay
nhưng mắt nhìn quanh lấm lét
họ chưa có câu trả lời dứt khoát
muốn đợi một thời gian.

sau vài năm
cuộc hôn nhân qua tuần trăng mật
đã đầy nước mắt
và những tiếng nấc nghẹn ngào
đám trí thức vô bưng năm nào
tức giận thấy mình bị bội phản
buông lời phản kháng
kẻ vô khám Chí Hòa
người bị quản thúc tại gia
đưổi gà cho vợ
thiên đường ước mơ sụp đổ.

má Hai
đã quen dần với bo bo, với sắn với khoai
như người dân Miền Bắc
những cán bộ xưa má nuôi trong hầm bí mật
đã ra lệnh bắt má mấy lần
má không đủ ăn
lấy đâu đóng thuế?

bà Tám ôm tấm bằng Gia Đình Liệt Sĩ
bụng đói meo
làng trên xóm dưới ai cũng nghèo
tình người hiếm hơn hồi đó
bà ra mộ con ngồi nhổ cỏ
khóc thầm.

những văn nhân
một thời phản chiến
“ngộ biến tòng quyền”
cố bẻ cong ngòi bút
nhưng với văn thơ, với nhạc
quen phóng túng tự do
sao chịu nổi gông xiềng
lại tiếc những ngày trời rộng thênh thang
múa bút.

đám thanh niên hèn, khoác lác
tưởng được chế độ mới tin dùng
bị đi lao động quốc phòng
thanh niên xung phong
làm việc không công nơi rừng sâu nước độc
cháy da vàng mắt
đói lòng.

những người dân
xưa chửi vung chửi vít
nay im thin thít
chẳng dám hé môi
một số kẻ lỡ lời
bị đi “tù không án”
khi cán bộ xưng tụng bác Hồ, ca ngợi Đảng
họ cao giọng hoan hô
vỗ tay thật to
nhưng bụng thầm ao ước được sống lại những ngày xưa cũ!

sau ba mươi tháng tư, đớn đau tủi hổ
là gia đình người lính Cộng Hòa
kể bị cướp nhà
người bị cướp đất
con bị đuổi học
vợ mất sở làm
chồng đi tù biệt tăm
đi họp, cán bộ Cộng Sản mỉa mai nhiếc móc
ra đường bị lườm dọc nguýt ngang.

đến khi ruộng vô tập đoàn
gạo vải sữa đường bán theo tiêu chuẩn
nhà máy công ty hãng xưởng
trờ thành quốc doanh
công an khu vực đầy quyền hành
thực thi chính sách nhân dân hộ khẩu
người dân chịu đời không thấu
mà chẳng dám than vãn kêu ca
bấy giờ gia đình người lính Cộng Hòa
mới nhận được những tia nhìn thiện cảm
nghĩ đến con, đến chồng, đến cha
trong nhà tù Cộng Sản
họ hãnh diện ngẩng đầu.


hôm nay giữa trời cao
được thấy lá cờ vàng ba sọc đỏ
phất phới bay trong gió
tôi muốn khóc thật to
tôi muốn hét lên
“Đây hạnh phúc! Đây tự do”
mà thuở nào tôi đã buông tay đánh mất
để phải chôn tháng năm tươi đẹp nhất
của cuộc đời
trong các trại tù rải rác khắp nơi
trên đất nước.
họ hàng tôi, đồng bào tôi
những ai không đi được
mấy chục năm trường
gánh chịu đau thương
uất hận tủi hờn
nhìn quê hương tan nát.
mẹ Việt Nam ơi ! Những đứa con lưu lạc
đã nhận rõ lỗi lầm
đang đấu tranh âm thầm
cho một ngày quang phục.

sẽ còn nhiều khó nhọc
để dành lại giang san
từ tay bọn Cộng Sản tham tàn
nhưng kìa! Phất phới bay trong gió
vẫn như ngày nào
lá cờ vàng ba sọc đỏ
mà sao hôm nay chính nghĩa sáng ngời
chẳng cần một lời luận bàn lý giải


tôi đứng lặng nhìn, lòng khoan khoái
lá cờ vẫn còn đây
thì quê hương ơi! sẽ có một ngày.

Viết tại San Leon sau một lần dự lễ dựng
kỳ đài tại Houston.
Phạm Đức Nhì

23.5.13

VIỆT NAM CỘNG SẢN NĂM THỨ 39

VIỆT NAM CỘNG SẢN NĂM THỨ 39


(Lịch VNCS: Ngày 1 tháng năm 1975 = mồng 1 tháng 1 năm Cộng sản 1)

TS Phan Văn Song

Kỳ 1: Chuyện Những Năm ấy, Chuyện Từ Ngày ấy

1. 30 tháng Tư 2013, ngày cuối năm, Việt Nam Cộng sản thứ 38, dỡ chồng báo cũ

30 tháng Tư 1975, dư luận thế giới dân chúng Huê Kỳ đã đành, cộng đồng Tây phương cũng thế, đều thở phào, vui mừng, nhẹ nhàng nghĩ rằng từ nay, mình hết trách nhiệm, làm như chiến tranh Việt Nam là một gánh nặng cho lương tâm họ, vì kể từ ngày ấy chiến tranh Việt Nam ngưng hẳn tiếng súng, thiên hạ trên thế giới vui mừng reo hò cho rằng hòa bình sẽ nở rộ trên đất nước Việt Nam. Dân chúng phương Tây, từ Âu qua đến Mỹ, từ những nhà chánh trị lỗi lạc đến thường dân đều một dạ thở phào nhẹ nhỏm tự kháu nhau: thôi từ nay, sẽ hết rồi, sẽ không còn nữa, sẽ không thấy nữa, những hình ảnh chiến sự Việt Nam trên những màn hình TV làm bận trí mỗi bửa cơm trưa, mỗi bửa cơm tối của gia đình. Thôi hết rồi, từ nay sẽ không còn thấy những hình ảnh loại cô bé Kim Cúc trần truồng, vừa khóc vừa chạy trên con lộ chiến tranh, hay hình ảnh Thiếu tướng Loan xử bắn tên Việt Cộng … Đây, chúng tôi hạn chế, chỉ nói đến hai tấm hình được giải thưởng báo chí thôi! Chúng tôi sẽ không dám và chưa kể những hình ảnh của những cảnh dội bom napalm, những hình ảnh rất mỹ thuật chụp bóng đen những đoàn trực thăng UH1 bay trên nền trời rực đỏ của hoàng hôn hay bình mình – cách trình bày đoàn trực thăng bay đen trên nền trời đỏ ví như một bầy quạ đen – rất mỹ thuật ấy đã tạo những ấn tượng rất “chống chiến tranh” của ngành truyền thông báo chí Âu Mỹ. Sau nầy, cả ngành điện ảnh Huê Kỳ cũng lạm dụng những hình ảnh như vậy để “đả phá chiến tranh Việt Nam nhìn từ phía Huê Kỳ và Tây phương”: Bộ phim Apocalypse Now – với những hình ảnh đầy biểu tượng tiêu cực “chống chiến tranh” như đoàn trực thăng, với tiếng cánh quạt xé gió và bản nhạc Walkyries của Richard Wagner, hay bộ phim Full Metal Jacket với những cảnh ngô nghê, kịch cợm, mạ lỵ quân đội trong quân trường Thủy quân Lục chiến Huê kỳ, hay đoạn đánh nhau ở Huế – tả cảnh chỉ một cô du kích trẻ Việt Cộng mà cầm châm cả một toán Thủy quân Lục chiến Mỹ.

Thật đúng vậy, chính giới truyền thông báo chí Mỹ và phương Tây đã đánh bại quân đội đồng minh và quân lực Việt Nam Cộng Hòa!

Nhưng tất cả thế giới đều bị lầm, tất cả thế giới đều bị gạt. Chỉ trong vòng vài ngày sau, cả thế giới ngã ngữa ra mới biết rằng bị thằng bé con Việt Cộng với bộ máy tuyên truyền Komintern – Cộng sản quốc tế lường gạt. Nhưng cũng có một điều rất lạ là người Tây phương tuy bị gạt họ vẫn tiếp tục có một cái nhìn rất bất công đối với chế độ Việt Nam Cộng Hòa. Ấy cũng do tàng tích của bộ máy tuyên truyền “thân Cộng Tây phương” dựng lên một huyền thoại bất công xuất phát bởi giới truyền thông phái tả Âu châu.

2. Một huyền thoại bất công: Phái hữu tư bản, thủ cựu vs Phái tả xã hội cấp tiến

Ôi sức mạnh của báo chí, ôi sức mạnh của tuyên truyền của thông tin. Từ sau Thế chiến 2, bổng nhiên có một phong trào, như một con bệnh, một con rắn độc, một con virus, một nọc độc, một bệnh truyền nhiểm, đưa những dòng suy nghĩ, tạo một dòng tư tưởng, một não trạng mới, “gọi là phái tả – theo một định nghĩa dùng ở xứ Pháp” đầu độc gìới truyền thông trí thức âu châu. Sau Thế chiến 2 những danh từ như Dân tộc, như Quốc gia biến thành những danh từ, những thành kiến… ghê tởm, nghe rợn tóc gáy. Chỉ vì ác quỷ Hitler ra lý thuyết

Quốc gia – Xã hội (National – Socialisme, gọi tắt là Nazisme) nên những phong trào, những tư tưởng thiên Quốc gia Dân tộc đều bị đánh giá là tiêu cực, là thủ cựu. Mà cũng lạ, National Dân tộc là thiên hữu là tiêu cực, nhưng socialisme lại là thiên tả là tích cực! Nhưng tại sao một thái độ chánh trị hay kinh tế bảo tồn văn hóa dân tộc, bảo tồn những giá trị lịch sử, những giá trị thủ cựu là một thái độ tiêu cực? Và bổng nhiên thiên hạ, dư luận toàn thế giới không hẹn mà đều đi đến kết luận, đánh giá là làn sóng chánh trị phái hữu với tinh thần bảo tồn, bảo vệ tinh thần dân tộc là tiêu cực và thủ cựu, Và phe Cộng sản chủ nghĩa, phe xã hội chủ nghĩa, phe phái tả, tự nhiên được hưởng, được đánh giá một cách chắc chấn là “cấp tiến”, là văn mình, là thông thoáng, cởi mở. Một cách tự nhiên, phe xã hội, phe cấp tiến là phe yêu chuông quốc tế, và vì là một phong trào quốc tế – internationalisme!

Và vì cả thiên hạ thế giới hiểu lầm như vậy nên khi những người dân Việt Nam chúng ta lựa chọn một đất nước lấy tên Quốc gia Việt Nam, với một nền chánh trị và một hướng chánh trị đứng phía bảo vệ một nền văn hóa cổ truyền, một nền luân lý có nguồn có gốc, có lịch sử do tổ tiên và cha ông ta truyền lại, và với một nền đạo đức tử tể, chúng ta bổng nhiên ở phía wrong side, sai quấy! Khi Quốc gia Việt Nam ra đời, chúng ta mặc dù được một số quốc gia tiên tiến trên thế giới nhìn nhận, chế độ chúng ta vẫn bị một nhóm trí thức tự cho mình là cấp tiến và một nhóm truyền thông báo chí cấp tiến “không tán thành ủng hộ”. Quốc gia Việt Nam ra đời sau một văn kiện ngoại giao quốc tế, với những ký kết bang giao quốc tế vẫn bị đã phá! Trái lại nhóm cướp chánh quyền, tự xưng, tự biên, tự diễn, không kèn không trống, dùng khủng bố để trị dân, dùng đấu tố để cầm quyền, chận sông cấm chợ lại được nhóm tuyên truyền quốc tế Komintern ủng hộ.

Sau khi đất nước bị chia đội, khi quân đội đồng minh do Huê Kỳ lãnh đạo đến với Việt Nam Cộng Hòa, để giúp chúng ta xây dựng một nền dân chủ tiên tiến kiểu tây phương, một nền kinh tế thị trường kiểu tư bản, giúp chúng ta xây dựng và bảo tồn một nền văn hóa dân tộc cổ truyền đạo Việt, biết trọng Đạo Trời biết Ơn Đất Nước, biết cầu biết nguyện chư tôn chư giáo, biết nhường trên nhịn dưới tôn ti trật tự, biết Ơn Cha quý Nghĩa Mẹ, biết thờ Ông bà cúng Tổ Tiến. Họ giúp chúng ta có quân đội, có vũ khí để giữ nhà giữ cửa giữ vững giang san bờ cõi miền Nam, và giúp chúng ta Chống Cộng, trang bị huấn luyện quân đội chúng ta… đồng bị (cả thế giới đồng loạt) nhóm tuyên truyền, thông tin thế giới tố cáo như những đoàn quân đi xâm chiếm lãnh thổ Việt Nam, và chúng ta, dân chúng miền Nam Việt Nam là một nạn nhơn! Trái lại, Quân đội Cộng sản, khi đánh giặc thì dùng chiến thuật biển người, thí chốt, thí quân; khi thắng trận, thì dùng khủng bố, đấu tố khát máu để trừng trị dân vùng bị chiếm đóng (không người Việt miền Nam nào không quên 5.000 nạn nhơn vô tội bị thàm sát vào Tết Mậu Thân ở Huế) nhưng khi phải chiếm đóng thì dùng cướp bóc, dùng tịch thu, dùng quốc hữu tài sản, kiểm kê tài sản, dùng cải cách ruộng đất bằng đấu bằng tố để san bằng thanh toán những kẻ những người có tý tư hữu…quân đội nhơn dân Cộng sản đi đến đâu cũng sống với dân, ăn bám vào dân, và buộc dân phải nuôi quân mình….

Quý vị thử so sánh: trong các quân đội Cộng sản, từ quân đội Hồng quân Liên Sô, qua đến quân đội Nhân dân Trung Cộng, và quân đội Việt Cộng có truyền thống đem theo một Bệnh viện dã chiến để chửa bệnh cho dân, và cứu trợ nạn nhơn chiến tranh, như truyền thống quân đội Huê Kỳ hay quân đội các đồng minh Huê Kỳ ở Việt Nam thời ấy, (từ Đại Hàn, đến Úc Châu, Tân Tây Lan, Phi, hay Thái) không? Khi đi hành quân, khi đến chiếm đóng, kiểm soát một vùng lạ, có một chương trình nhơn đạo, loại cứu trợ hay chữa bệnh, chích ngừa cho dân trong vùng không? Quân Cộng sản, vì là quân đội nhân dân, ăn với dân, ngủ với dân, đi đến đâu buộc người dân ở đấy phải nuôi quân, quân đội ở nhà dân, quân đội ngủ nhà dân, nào là mẹ nuôi, nào là em nuôi, chị nuôi, và nếu cần cả hộ lý nữa, nghĩa là quân đội có quyền “sung công, quốc hữu cả VỢ dân, Vợ người, bất kể ĐỊCH hay BẠN”.

Thế mà phe chúng ta vẫn bị mang tiếng là quân xâm chiếm.

Thật là Bất công! Tuyên truyền đã bất công mà quảng bà cũng bất công.

3. Quảng bá bất công: Hình ảnh Chiến tranh vs Hình ảnh tỵ nạn

Càng bất công hơn nữa là trong cách thức quảng bá các hình ảnh, các phóng sự: không một hình ảnh nào tả những cuộc tỵ nạn, lánh nạn Cộng sản, được nhận giải thưởng. Những hình ảnh tơi tả của những đoàn người dân miền Nam Việt Nam, chúng ta vì quân đội ta thiếu tiếp tế, thiếu đạn, không giữ được căn cứ, phải bắt buộc một cuộc chạy nạn chiến tranh và nạn Cộng sản trong máu lữa vì pháo vi đạn của Cộng quân rồn rập bắn theo. (đại lộ kinh hoàng Quảng Trị-Huế năm 1972, Cuộc Đông Du gian khổ trên quốc lộ 19 từ Pleiku về Qui nhơn, vượt Sông Ba tháng 3/năm 1975).

Thật đúng là “Một cuộc bỏ phiếu bằng chân không tiền khoáng hậu trong lịch sử Việt Nam!” – không nhớ tên nhà báo nào đã đật tên cho những cuộc chạy nạn Công sản vào những tháng 2, 3 và Tư năm 1975, có lẽ ? của nữ ký giả và nữ văn hào người Ý, Oriana Fallaci (1929-2006) – người ký giả duy nhứt của thế giới truyền thông phương Tây thời bây giờ, dám đặt rõ trách nhiệm chiến tranh cho cả Mỹ và quân đội đồng minh (như tất cả các nhà báo tây phương khác) và cho cả Việt Cộng. Chúng tôi rất ngưỡng mộ tài nghệ cố ký giả nầy, bà đã dám vạch mặt Islam cho bọn trí thức Tây phương hèn yếu.

Xin các độc giả cố nhớ dùm xem có hình ảnh nào, có bài phóng sự nào, của những cuộc di tản của những tháng ấy, của dân chúng miền Nam chúng ta, nhận được một giải thưởng báo chí quốc tế nào không? Mà các hình ảnh, các phóng sự tỵ nạn có kém chi các hình ảnh chiến tranh trước đó vài năm? Cũng hãi hùng có kém chi chiến tranh, cũng chết cũng chóc, cũng máu, cũng lữa, có khác chi chiến tranh? Nếu với chiến tranh có lửa cháy, có bom rơi, có đạn réo, có người chết, có phá hoại, có tàn phá; thì hình ảnh những cảnh tỵ nạn, tuy không ồn ào bằng, tuy chỉ trong im lặng, không có tiếng la không có tiếng rên không có tiếng khóc, vì đoàn người tuyệt vọng đã khóc hết nước mắt, đã gào hết cả hơi sức đã tàn, thân đã kiệt… Hoặc giả có những hình ảnh về sau nầy, sau rất lâu, lâu lắm, sau cả những ngày, sau cả những năm, sau cả những tháng của ngày 30 tháng tư, những cảnh của những đoàn người lén lút ra đi, vượt biên, vượt biển, thì cũng chẳng có bức hình chụp nào, và cũng chẳnh một giải thưởng nào !!.

4. 30 tháng Tư 1975, thật đúng là Ngày Quốc Hận! Vì đấy là dấu mốc đổi đời

Thật tình mà nói, thân phân người dân trong khói lửa chiến tranh, hay trong hỗn độn chạy nạn thì cũng như nhau, cũng trơ cũng trụi, cũng mình trần, chân đất, cũng mất cũng mát. Nhưng trước ngày 30 tháng tư, trong khói lửa chiến tranh, chạy nạn chiến tranh người dân còn nhiều hy vọng, có thể mong đi đến trạm cứu trợ, gặp quân nhà, thương binh còn mong gặp đồng đội, còn có xe quân nhà, còn có Hồng Thập Tự, có ý tá, có bệnh viện, trực thăng, xe cấp cứu ….Nhưng trái lại đến lúc sau ngày ấy, sau ngày 30 tháng tư 1975, khi vượt biển tỵ nạn, có khi bị hãm, có khi bị hiếp, có khi bị cướp, có khi bị bỏ lại …hoặc khi bị chìm xuồng, bị đắm tàu… Cũng có vài hình ảnh thuyền nhơn – boat people cũng đã để lại vài dấu ấn, gây một tý ấn tượng, tạo một biểu tượng, một cảm xúc… như hình ảnh một chiếc ghe đầy nhóc người trước khi được cứu! Nhưng chiếc hình ảnh đầy ấn tượng kia, gây một hình ảnh thương xót ấy trái lại là một bức hình đầy sự vui mừng, tràn trề hy vọng! Vì chiếc ghe, chiếc thuyền nào được chụp hình là chiếc ghe, chiếc thuyền ấy đã đến bến an toàn, sắp được cứu thoát, và những thuyền nhơn sẽ được cứu vớt, được tỵ nạn, và ngày nay, các đàn con các đàn cháu thế hệ 2, thế hệ 3 đã nên người, thành công. Nhưng còn những chiếc ghe, những chiếc thuyền không được chụp hình? không ai thấy không ai vớt? …

Anh đàn anh Giao Chỉ ở San José, tuần qua, đã cho đang lại bài viết năm xưa với tựa đề: 30 tháng Tư năm 1975 Bác ở đâu? Vì có một cháu đã nói rằng 30 tháng tư năm ấy, cháu tuy chỉ mới 19 tuổi, đã có mặt tại Nghĩa Trang Quân đội để chôn người yêu, người hôn phu của

cháu vừa chết trận vài ngày trước, và cháu ấy hỏi lại “Ngày ấy các Bác ở đâu?”. Và ông anh Giao chỉ cũng buồn rầu, hối hận tự hỏi mình và bạn bè thế hệ mình “Vậy thì các Bác ở đâu ngày ấy ?”.

Cháu ơi, 30 tháng tư 1975 và những ngày tháng tiếp theo, và những năm tháng tiếp theo, có rất nhiều, có cả bao nhiêu cháu, có cả bao nhiêu Bác, … cũng phải chôn người yêu, chôn người thân, nhưng người yêu họ, người thân họ, không còn anh hùng chết trận, không còn tử sĩ, không chết trận! Cháu à, chết trận là một vinh quang, mặc dù là một may rủi của trai thời loạn, nhưng so sánh trong những cái chết của người Việt Nam chúng ta lớn trong thời chiến, công tâm mà nói, làm trai chết trận, được mang xác về, được phủ lá cờ vàng, và được“lên lon giữa hai hàng nến rơi ..” là một cái may mắn! (hơn những người chết sau nầy) Vì khi ta chết trận, ít ra, chúng ta còn được cái quyền tự vệ, đánh nhau với địch, ta chậm tay, ta yếu thế, ta hết đạn, ta hết sức, ta thua, ta chết, chả có chi tiếc cả, chả có chi buồn cả – buồn chăng là vợ con gia đình người thân!

Những ngày sau 30 tháng Tư, vào giờ thứ 25, hết đánh nhau rồi; những ngày mà thế giới, thiên hạ bảo là hòa bình rồi, gia đình thiên hạ lối xóm cũng bảo là hòa bình rồi, mọi người trong nước cũng bảo là hòa bình rồi, cả cái thằng thắng trận, nay nó là nhà nước, nay nó là nhà cầm quyền, nó quản trị mình nó cũng bảo là hòa bình rồi không còn tiếng súng nữa, và không còn chuyện chết chóc nữa. Và hết rồi không còn cái chuyện:

“Chết nghẹt ngào dọc theo biên giới …” của một Trịnh Công Sơn phản chiến, trốn lính đau khổ sốt ruột, vì thấy bạn bè mình có “người yêu chết trận”.

Tại sao Trịnh Công Sơn hay một du ca phản chiến nào, không khóc cho những ai có những người yêu

“Chết ở Biển Đông … chết ở Đảo hoang Pulau nào đó… hay bị hảm bị hiếp, trên những nẻo đường củng dọc theo biên giới”.

Ôi bất công! Còn chưa kể những người yêu “Chết ở trại tù đày dọc theo biên giới, chết ở những Long Giao, Suối Máu, Cổng trời, Hàm tân… Chết tại những T20, những Z30… và chôn nằm cạnh nhau trên đồi Fanta!”

Không ai làm bài thơ không ai làm bài hát cho những người yêu đã chết nầy cả .

Tôi vẫn không quên và cám ơn những nhạc sĩ đã khóc Hà Nội ngày xưa, khóc Sài Gòn ngày xưa. Hà Nội đẹp trong giấc mơ 36 phố phường, Hồ Gươm, Tháp Rùa. Sài Gòn nắng ấm, đường Tự Do Eden, La Pagode, Givral,… (Lạ nhỉ sau nhớ Hà Nội, nhớ cảnh nhớ phố nhớ phường, nhớ Sài Gòn lại nhớ quán ăn, quán nhậu, với bạn, với em. – và cái đặc biệt là những kỷ niệm ăn nhậu ở Givral, La Pagode không bao giờ có ông Cụ bà Cụ, buổi cơm gia đình nào cả ! Lạ thật có lẽ thế hệ ta quá bất hiếu không dám mời ông Cụ bà cụ đấng sanh thành đi ăn kem Givral, hay uống trà la Pagode? – Xin lỗi ba mẹ con quá bất hiếu!)

Nhưng tôi không bao giờ quên những hình ảnh dân chúng chen lấn hỗn loạn tranh nhau tìm phương tiện hay những ngõ ngách để thoát hiểm: từ leo rào vào Sứ quán Mỹ, đến chen chúc trú ngụ tại Bệnh Viện Grall, hy vọng được núp bóng cái dù Pháp, qua đến những hình ảnh những đoàn người tỵ nạn, trên đường số 9 từ Pleiku về Biển Đông, từ Huế xuôi Nam, hay những chiếc đầu ngụp lặn lội ra biển để mong được các thuyền ghe cứu vớt…

Thay lời kết: 38 năm rồi vẫn chưa định nghĩa được ngày ấy

Cơn sóng gió tranh cải vẫn chưa nguôi. 38 năm đã qua rồi từ ngày 30 tháng tư năm 1975. Suốt tuần qua từ những polémics [luận chiến] nầy đến những polémics [bút chiến] khác.

Chúng tôi sẽ chia sẻ với quý vị tuần tới bài Kỳ 2.

Hồi Nhơn Sơn, 06/05/2013 - TS Phan Văn Song

21.5.13

Mẹ Việt Nam sau ngày Quốc Hận 30/4/1975 !

Mẹ Việt Nam sau ngày Quốc Hận 30/4/1975 !












MỘT HÌNH ẢNH XÚC ĐỘNG:


THÂN CÒ 76 TUỔI

Đêm mùa đông rét như cắt da cắt thịt, cụ Phạm Đoàn, 76 tuổi, thôn Quảng Hội, xã Vạn Thắng, huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa, cơ thể chỉ như da bọc xương, thức dậy từ 1 giờ khuya, lọ mọ xuống ngâm mình dưới biển mò cua bắt ốc kiếm gạo ăn qua ngày.

“Con nước vừa rồi không kiếm đủ gạo, phải mượn hàng xóm 20.000 đồng đắp đổi thêm. Bây giờ phải ráng mò cua ốc kiếm tiền trả nợ, mua gạo, nếu dư dành mua hộp bánh cúng ông bà mấy ngày tết” – cụ Đoàn nói.

“Nước biển cạn lúc nào là dậy đi lúc đó. Mùa đông nước thường cạn về khuya: 12 giờ đêm, 1 giờ, 2 giờ… Mắt mũi tui lòa nhòa hết rồi, đi ban đêm không thấy gì hết, phải nhờ mấy đứa trẻ đi trước dẫn đường. Qua mấy cái dây neo ghe, mấy đứa phải hô: “Coi chừng dây neo”, rồi đạp chân xuống cho tui bước qua. Trời tối như mực, đêm nào cũng vấp đá, vấp dây ngã nhào cổ” – cụ Đoàn kể về con đường đi hành nghề vô vùng gian khổ của mình.



Dù kiếm ăn đêm dọc bờ biển nhưng điều rất nguy hiểm là cụ không biết bơi. Cụ cho biết nhiều lần sém chết trong đêm tối.

Cụ Đoàn kể: “Có lúc đang mò cua ốc tui bị những con sóng to xô ngã, nước “đè” lên cả đầu. Tui phải dùng hai tay bấu xuống đất, sợ nước kéo ra ngoài sâu. Còn lội đi bị sụp hầm, sụp hố nước sâu uống nước no cả bụng thì xảy ra như cơm bữa. Sợ nhất là mấy ghe giã cào vào bờ lúc 2-3 giờ sáng, cứ đẩy thúng chai đi ào ào va vô người mình lúc nào không hay”.


Cụ vừa từ dưới biển lên, người run lẩy bẩy.

Chân bị miểng chai cắt máu chảy nhiều, cụ phải nhai thuốc lá đắp cầm máu



Từ 1 giờ sáng đến gần 11 giờ trưa trong bụng không có hột cơm, ngâm mình trong giá rét… nhưng chỉ bán được 17.000 đồng. Giá trị cả ngày lam lũ chỉ thu được 10.000-20.000 đồng, gặp lúc sóng to gió lớn chỉ được 5.000-7.000 đồng.
Khi nhìn những hình ảnh của một cụ bà đã 76 tuổi, nhưng ngày lại ngày qua, vẫn dầm mình dưới dòng nước lạnh lẽo để “mò cua bắt ốc kiếm gạo qua ngày”. Người viết bỗng thấy nhói lên từng cơn đau đến quặn ruột, thắt gan !

Ngày xưa, người dân Việt đã từng đánh đuổi thực dân Pháp, nhưng giờ đây, tất cả mọi người, không phân biệt là sắc tộc nào ở tại đất Pháp, trong đó, có người Việt, họ đều được đối xử như nhau. Tất cả mọi người, dù không hề có làm việc một ngày nào trên đất Pháp, nhưng ngay khi đến sáu mươi lăm tuổi, thì đều được hưởng trợ cấp “tiền già”; mỗi tháng đều được chính phủ gửi thẳng vào trương mục của mình là 750 euros (bảy trăm năm mươi đồng). Ngoài ra, những người bệnh tật, già yếu đều được trợ cấp thêm tiền để tự thuê mướn người đến tận nhà để giúp đỡ cho mình như tắm rửa, nấu ăn, rồi múc từng muỗng thức ăn, từng ly nước đưa tận miệng… nghĩa là được giúp đỡ hết mọi thứ.

Nhưng, nhìn về quê hương, thì lại thấy những cảnh đau lòng này, những hình ảnh mà không hề có ở cái xứ của “thực dân” này, đã khiến cho người viết nhớ lại mấy câu thơ của Tố Hữu như sau:

“Bác sống như trời đất của ta,

Yêu từng ngọn lúa, mỗi cành hoa.

Tự do cho mỗi đời nô lệ,

Sữa để em thơ, lụa tặng già”.

Sau ba mươi bảy năm cướp đoạt được đất nước Việt Nam Cộng Hòa, thì cụ già không hề có manh áo vải, chứ đừng mơ đến “lụa”; còn trẻ thì cháo loãng cũng chẳng có, chứ đừng nói chi đến “sữa”.

Chúng ta hãy nhìn xem, những ngôi nhà cao sang, lộng lẫy của những tên “cán bộ cao cấp” của đảng Cộng sản Việt Nam, của những “đại gia” là con cháu của những kẻ này, chúng ăn chơi còn gấp vạn lần “công tử Bạc Liêu” của ngày xưa ấy; để rồi hãy quay nhìn lại những cảnh đời cùng khốn ở dưới địa ngục trần gian này !
“Giải phóng miền Nam”, là cái chiêu bài của cộng sản Hà Nội, để lừa gạt những thiếu nhi, thiếu niên miền Bắc, để họ phải đi vào “bộ đội sinh Bắc tử Nam”, để chết thay cho những kẻ cầm quyền được ấm êm trong nhung gấm, cao sang, còn người dân của cả ba miền, Trung, Nam, Bắc đa số phải sống một cuộc đời lầm than, cơ hàn, đói rách như ở vào thời thượng cổ !

Còn chần chờ gì nữa ! Xin đồng bào cả nước, hãy quyết liệt đòi đảng Cộng sản Việt Nam phải trả “Tự do cho mỗi đời nô lệ, Sữa để em thơ, lụa tặng già”. Phải trả lại cho người dân của nước Việt Nam Cộng Hòa tất cả những gì mà họ đã có trước ngày 30/4/1975.

Nhưng chưa hết, vì Tố Hữu còn viết:

“Bác nhớ miền Nam, nỗi nhớ nhà,

Miền Nam mong bác, nỗi mong cha.

Bác nghe từng bước trên tiền tuyến,

Lắng mỗi tin mừng, tiếng súng xa”.

Miền Nam nào “‘mong cha” Hồ ??? Tố Hữu đúng là một tên lộng ngôn, vọng ngữ. May mà chết sớm hơn, nên thoát khỏi bàn tay của “mỗi đời nô lệ”; nhưng dưới “suối vàng” và mãi mãi cho đến muôn đời sau, con cháu của Tố Hữu, cũng phải cứ nghe những lời nguyền rủa của những người dân khốn khổ, mà chưa nói đến chuyện bị người ta đào mồ, cuốc mả nữa.



Xin đồng bào cả nước, xin “mỗi đời nô lệ” hãy đồng tâm, quyết liệt, để đòi đảng Cộng sản Việt Nam phải trả cho bằng được cái món nợ “Sữa để em thơ, lụa tặng già”. Đừng chần chờ gì nữa !





Sau Gần 40 Năm, Người Việt Vẫn Vượt Biển

Sau Gần 40 Năm, Người Việt Vẫn Vượt Biển


Người-Quan-Tâm

HÀ NỘI, Việt Nam – Gần 40 năm sau khi hàng trăm ngàn người Việt Nam chạy trốn chế độ Cộng sản bằng thuyền, nay lại một lần nữa, ngày càng tăng số người Việt Nam đang tìm đường vượt biển.

Riêng trong năm nay, 460 người đàn ông, phụ nữ và trẻ em Việt Nam, đã đến bờ biển Úc – nhiều hơn tổng số năm năm qua. Số người vượt biển tăng vọt bất ngờ gây chú ý đến thành tích vi phạm nhân quyền của Hà Nội, mặc dù nền kinh tế suy giảm của Việt Nam cũng có thể giải thích tại sao những người vượt biển đã chọn hành trình nguy hiểm

Theo các nhân chứng trên bờ thì con thuyền mới nhất mang người Việt đến đảo Giáng Sinh (Christmas island) của Úc vào một buổi sáng tháng trước; Số sơn trên thân tàu cho biết đây là một tàu đánh cá ký danh tại tỉnh Kiên Giang, một tỉnh phía nam Việt Nam cách đảo Giáng Sinh hơn 2.300 km (1.400 dặm); đảo này gần Indonesia hơn là lục địa Australia.

Nhiều người Việt Nam vượt biển đến Úc đã được biệt giam. Chính phủ không công bố chi tiết về tôn giáo và nơi xuất xứ của họ ở Việt Nam, cả hai đều có thể gợi ý lý do tại sao họ đi tị nạn.

Trương Chí Liêm, qua điện thoại từ Trung tâm tạm giữ nhập cư Villawood ở ngoại ô Sydney, không tiết lộ chi tiết về trường hợp của mình nhưng cho biết, “Tôi thà chết ở đây hơn bị buộc phải trở về Việt Nam.”
Sau Gần 40 Năm, Người Việt Vẫn Vượt Biển


Người-Quan-Tâm

HÀ NỘI, Việt Nam – Gần 40 năm sau khi hàng trăm ngàn người Việt Nam chạy trốn chế độ Cộng sản bằng thuyền, nay lại một lần nữa, ngày càng tăng số người Việt Nam đang tìm đường vượt biển.

Riêng trong năm nay, 460 người đàn ông, phụ nữ và trẻ em Việt Nam, đã đến bờ biển Úc – nhiều hơn tổng số năm năm qua. Số người vượt biển tăng vọt bất ngờ gây chú ý đến thành tích vi phạm nhân quyền của Hà Nội, mặc dù nền kinh tế suy giảm của Việt Nam cũng có thể giải thích tại sao những người vượt biển đã chọn hành trình nguy hiểm

Theo các nhân chứng trên bờ thì con thuyền mới nhất mang người Việt đến đảo Giáng Sinh (Christmas island) của Úc vào một buổi sáng tháng trước; Số sơn trên thân tàu cho biết đây là một tàu đánh cá ký danh tại tỉnh Kiên Giang, một tỉnh phía nam Việt Nam cách đảo Giáng Sinh hơn 2.300 km (1.400 dặm); đảo này gần Indonesia hơn là lục địa Australia.

Nhiều người Việt Nam vượt biển đến Úc đã được biệt giam. Chính phủ không công bố chi tiết về tôn giáo và nơi xuất xứ của họ ở Việt Nam, cả hai đều có thể gợi ý lý do tại sao họ đi tị nạn.

Trương Chí Liêm, qua điện thoại từ Trung tâm tạm giữ nhập cư Villawood ở ngoại ô Sydney, không tiết lộ chi tiết về trường hợp của mình nhưng cho biết, “Tôi thà chết ở đây hơn bị buộc phải trở về Việt Nam.”


Tàu đánh cá ở Kiên Giang đưa người Việt Nam vượt biển sang Úc 14.4.2013. Nguồn: AP

23 tuổi rời Việt Nam cách đây năm năm, nhưng những đã bị bắt giữ lại ở Indonesia 18 tháng trên đường vượt biển. Ông nói, nếu người Việt Nam, chỉ đơn giản tìm cách để kiếm tiền nhiều thì không nên vượt biển, nhưng ông cũng nói rằng, “Nếu người ta đang sống một cuộc sống khốn khổ, phải đương đầu với các mối đe dọa và đàn áp của chính quyền, thì họ nên đi”.

Số người Việt Nam đến Úc qua ngả Indonesia, theo cùng một tuyến đường xa mà đã rất nhiều người tị nạn từ Nam Á và Trung Đông đã đi từ hơn mười năm qua. Những người khác ra khơi từ Việt Nam, một cuộc hành trình xa hơn và rủi ro nhiều hơn.

Trong thông báo riêng, chính phủ Úc và Việt Nam cho biết đại đa số hoặc tất cả dân di cư là người nhập cư kinh tế, vì thế khiến họ không đủ điều kiện xin tị nạn. Một số người hoạt động trong cộng đồng người Việt tại Úc và các luật sư đã đại diện cho người tị nạn Việt Nam phản đối lối phân loại đó hoặc đã đặt câu hỏi về quá trình sàng lọc mà Úc sử dụng.

Những người hoạt động và các luật sư nêu trên cũng quan tâm về tương lai của những người di cư, nói rằng một bên Úc không muốn giữ họ, mặt khác Việt Nam không muốn nhận họ trở về.

“Quan điểm của Việt Nam là, “những người này sẽ không bao giờ là những người bạn của chúng tôi, vậy tại sao chúng tôi phải nhận họ trở lại?” Đoàn Viết Trung, một cựu chủ tịch cộng đồng người Việt tại Úc, nói.

Trong một tuyên bố, chính phủ Việt Nam cho biết họ “sẵn sàng hợp tác với các bên liên quan để giải quyết vấn đề này”.

Tị nạn là một vấn đề nhạy cảm đối với Việt Nam vì những cuộc vượt biển như thế sẽ xói mòn luận điệu tuyên truyền của Đảng Cộng sản rằng mọi việc đều tốt ở Việt Nam. Họ vẫn còn nhớ cuộc vượt biển, vượt biên hàng loạt sau khi chiến tranh Việt Nam chấm dứt.

Những người Việt Nam chạy trốn cuộc đàn áp những người Cộng sản chiến thắng ngay sau 30 tháng 4, 1975 đã gây ra một cuộc khủng hoảng nhân đạo toàn cầu. Tình cảnh của người vượt biển đã gây tiếng vang với Mỹ và các đồng minh, và ban đầu họ được đưa đi tị nạn ngay lập tức. Đến năm 1989, họ, những người Việt Nam vượt biển, vượt biên, đã phải chứng minh trường hợp của mình theo Công ước Geneva, và kết quả là tỷ lệ được chấp nhận là người tị nạn nhanh chóng giảm xuống. Gần 900.000 Việt đã đi bằng thuyền hay đường bộ đến và Hoa Kỳ, Canada và Úc là ba quốc gia đã nhận hầu hết những người này.

Việt Nam vẫn là một quốc gia độc đảng bắt giữ kết án tù dài ngày với những người phê bình chính phủ, kể cả các blogger và những người hoạt động là tín hữu Thiên Chúa giáo. Human Rights Watch cáo buộc tra tấn trong tù ở Việt Nam là chuyện thường ngày. Những nhóm Thiên Chúa giáo đã báo cáo về những cái chết đáng ngờ trong các trại giam tại Việt Nam.

Những người hoạt động nhân quyền độc lập cho hay đàn áp đã tăng lên trong hai năm qua.


Đảo Giáng Sinh. Nguồn: Google Maps

Có rất ít thông tin về nhân thân của những người đã vượt biển trong năm nay.

Ít nhất một số người đã đến trong thời gian gần đây là tín hữu Thiên Chúa giáo, đã tham gia vào một cuộc biểu tình gần một nhà thờ ở thủ đô Hà Nội, Kaye Bernard cho biết; Bernard là một người ủng hộ người tị nạn đã gặp một người vượt biển là dân Hà Nội. Những người khác, được cho là có liên quan đến những vụ

tranh chấp đất đai với chính quyền địa phương.

“Tôi không nghĩ rằng người ta có thể tổng quát hóa vấn đề, nhưng đã có sự gia tăng đàn áp tại Việt Nam. Người ta sợ hãi hơn xưa”, Trịnh Hội, một người Úc gốc Việt, đứng đầu một tổ chức giúp người tị nạn cho biết. “Nếu có nhiều người sợ hãi hơn, nhiều người trong số họ sẽ bỏ chạy”.

Peter Hansen, một luật sư và chuyên gia về Việt Nam đã cố vấn trong một số khiếu kiện liên quan đến người tị nạn Việt Nam, cho biết về một số ít trường hợp ông biết được không liên quan đến giới trí thức, các blogger bất đồng chính kiến đang là mục tiêu trong chiến dịch hiện tại của chính phủ. Nhưng ông cảnh báo rằng nguyên tắc hiện hành của Úc để đánh giá sự hợp lệ của những lời khai tị nạn từ Việt Nam đã không căn cứ vào thực tế là có những cuộc đàn áp một số giáo phái, tôn giáo tại một số địa phương ở Việt Nam.

“Tôi không thể giải thích lý do tại sao đã có một sự gia tăng đáng kể trong năm nay, nhưng tôi có thể cho bạn biết chắc chắn rằng có một số trong những người đó không có động lực để đến đây vì lý do kinh tế,” ông nói.

Các nước láng giềng như Campuchia đã tiếp tục nhận một số nhỏ người tị nạn từ những năm 1990. Hàng ngàn người Việt Nam đã rời đất nước để làm việc ở châu Á hay xa hơn nữa, bất hợp pháp hoặc là lao động xuất khẩu. Nhiều người không quay trở lại Việt Nam sau khi hết hợp đồng lao động.

Úc dường như là điểm đến được ưa chuộng, nhưng quốc gia này đã phải đương đầu với một con số tị nạn kỷ lục trong năm nay. Vì áp lực của công chúng, chính phủ Úc đã làm khó khăn hơn để được coi là người tị nạn và thường tạm giữ người di cư trên những hòn đảo cô lập, không gặp được luật sư. Những người chỉ trích nói rằng Canberra trốn tránh trách nhiệm của mình theo Công ước tị nạn của Liên Hiệp Quốc bằng những biện pháp này.

Cùng với những người có quốc tịch khác, người Việt đang bị tạm giam, trên đất liền, hay trên đảo Christmas hoặc các đảo khác ở Thái Bình Dương như Nauru và Manus. Gia đình và trẻ em không có người đỡ đầu được tạm giữ trong cơ sở giam giữ an ninh thấp. Bốn người Việt Nam, trong đó có một thiếu niên, đã trốn thoát khỏi một trung tâm như vậy ở Darwin vào đầu tuần này, theo nhà chức trách.

Úc muốn phản ứng cứng rắn với ngượi vượt biển từ Việt dường như đã gặp phải một vấn đề: Chính phủ tại Hà Nội cho thấy họ không hứng thú trong việc nhận lại người tị nạn, theo các người hoạt động và các luật sư.

Úc không thể đơn giản đem người vượt biển lên máy bay đưa về Hà Nội. Họ, người vượt biển, cần phải có giấy tờ do giới cầm quyền Việt Nam cấp, và Hà Nội đầu tiên phải xác nhận căn cước của những người này.

Trong số 101 người Việt Nam vượt biển đến Úc vào năm 2011, đến nay chỉ có sáu bị trả lại cho Việt Nam. Rất ít người, nếu có, đã được cấp căn cước tị nạn, luật sư và các người hoạt động cho hay.

Nguồn: 2013 DCVOnline
Tàu đánh cá ở Kiên Giang đưa người Việt Nam vượt biển sang Úc 14.4.2013. Nguồn: AP

23 tuổi rời Việt Nam cách đây năm năm, nhưng những đã bị bắt giữ lại ở Indonesia 18 tháng trên đường vượt biển. Ông nói, nếu người Việt Nam, chỉ đơn giản tìm cách để kiếm tiền nhiều thì không nên vượt biển, nhưng ông cũng nói rằng, “Nếu người ta đang sống một cuộc sống khốn khổ, phải đương đầu với các mối đe dọa và đàn áp của chính quyền, thì họ nên đi”.

Số người Việt Nam đến Úc qua ngả Indonesia, theo cùng một tuyến đường xa mà đã rất nhiều người tị nạn từ Nam Á và Trung Đông đã đi từ hơn mười năm qua. Những người khác ra khơi từ Việt Nam, một cuộc hành trình xa hơn và rủi ro nhiều hơn.

Trong thông báo riêng, chính phủ Úc và Việt Nam cho biết đại đa số hoặc tất cả dân di cư là người nhập cư kinh tế, vì thế khiến họ không đủ điều kiện xin tị nạn. Một số người hoạt động trong cộng đồng người Việt tại Úc và các luật sư đã đại diện cho người tị nạn Việt Nam phản đối lối phân loại đó hoặc đã đặt câu hỏi về quá trình sàng lọc mà Úc sử dụng.

Những người hoạt động và các luật sư nêu trên cũng quan tâm về tương lai của những người di cư, nói rằng một bên Úc không muốn giữ họ, mặt khác Việt Nam không muốn nhận họ trở về.

“Quan điểm của Việt Nam là, “những người này sẽ không bao giờ là những người bạn của chúng tôi, vậy tại sao chúng tôi phải nhận họ trở lại?” Đoàn Viết Trung, một cựu chủ tịch cộng đồng người Việt tại Úc, nói.

Trong một tuyên bố, chính phủ Việt Nam cho biết họ “sẵn sàng hợp tác với các bên liên quan để giải quyết vấn đề này”.

Tị nạn là một vấn đề nhạy cảm đối với Việt Nam vì những cuộc vượt biển như thế sẽ xói mòn luận điệu tuyên truyền của Đảng Cộng sản rằng mọi việc đều tốt ở Việt Nam. Họ vẫn còn nhớ cuộc vượt biển, vượt biên hàng loạt sau khi chiến tranh Việt Nam chấm dứt.

Những người Việt Nam chạy trốn cuộc đàn áp những người Cộng sản chiến thắng ngay sau 30 tháng 4, 1975 đã gây ra một cuộc khủng hoảng nhân đạo toàn cầu. Tình cảnh của người vượt biển đã gây tiếng vang với Mỹ và các đồng minh, và ban đầu họ được đưa đi tị nạn ngay lập tức. Đến năm 1989, họ, những người Việt Nam vượt biển, vượt biên, đã phải chứng minh trường hợp của mình theo Công ước Geneva, và kết quả là tỷ lệ được chấp nhận là người tị nạn nhanh chóng giảm xuống. Gần 900.000 Việt đã đi bằng thuyền hay đường bộ đến và Hoa Kỳ, Canada và Úc là ba quốc gia đã nhận hầu hết những người này.

Việt Nam vẫn là một quốc gia độc đảng bắt giữ kết án tù dài ngày với những người phê bình chính phủ, kể cả các blogger và những người hoạt động là tín hữu Thiên Chúa giáo. Human Rights Watch cáo buộc tra tấn trong tù ở Việt Nam là chuyện thường ngày. Những nhóm Thiên Chúa giáo đã báo cáo về những cái chết đáng ngờ trong các trại giam tại Việt Nam.

Những người hoạt động nhân quyền độc lập cho hay đàn áp đã tăng lên trong hai năm qua.

Đảo Giáng Sinh. Nguồn: Google Maps

Có rất ít thông tin về nhân thân của những người đã vượt biển trong năm nay.

Ít nhất một số người đã đến trong thời gian gần đây là tín hữu Thiên Chúa giáo, đã tham gia vào một cuộc biểu tình gần một nhà thờ ở thủ đô Hà Nội, Kaye Bernard cho biết; Bernard là một người ủng hộ người tị nạn đã gặp một người vượt biển là dân Hà Nội. Những người khác, được cho là có liên quan đến những vụ

tranh chấp đất đai với chính quyền địa phương.

“Tôi không nghĩ rằng người ta có thể tổng quát hóa vấn đề, nhưng đã có sự gia tăng đàn áp tại Việt Nam. Người ta sợ hãi hơn xưa”, Trịnh Hội, một người Úc gốc Việt, đứng đầu một tổ chức giúp người tị nạn cho biết. “Nếu có nhiều người sợ hãi hơn, nhiều người trong số họ sẽ bỏ chạy”.

Peter Hansen, một luật sư và chuyên gia về Việt Nam đã cố vấn trong một số khiếu kiện liên quan đến người tị nạn Việt Nam, cho biết về một số ít trường hợp ông biết được không liên quan đến giới trí thức, các blogger bất đồng chính kiến đang là mục tiêu trong chiến dịch hiện tại của chính phủ. Nhưng ông cảnh báo rằng nguyên tắc hiện hành của Úc để đánh giá sự hợp lệ của những lời khai tị nạn từ Việt Nam đã không căn cứ vào thực tế là có những cuộc đàn áp một số giáo phái, tôn giáo tại một số địa phương ở Việt Nam.

“Tôi không thể giải thích lý do tại sao đã có một sự gia tăng đáng kể trong năm nay, nhưng tôi có thể cho bạn biết chắc chắn rằng có một số trong những người đó không có động lực để đến đây vì lý do kinh tế,” ông nói.

Các nước láng giềng như Campuchia đã tiếp tục nhận một số nhỏ người tị nạn từ những năm 1990. Hàng ngàn người Việt Nam đã rời đất nước để làm việc ở châu Á hay xa hơn nữa, bất hợp pháp hoặc là lao động xuất khẩu. Nhiều người không quay trở lại Việt Nam sau khi hết hợp đồng lao động.

Úc dường như là điểm đến được ưa chuộng, nhưng quốc gia này đã phải đương đầu với một con số tị nạn kỷ lục trong năm nay. Vì áp lực của công chúng, chính phủ Úc đã làm khó khăn hơn để được coi là người tị nạn và thường tạm giữ người di cư trên những hòn đảo cô lập, không gặp được luật sư. Những người chỉ trích nói rằng Canberra trốn tránh trách nhiệm của mình theo Công ước tị nạn của Liên Hiệp Quốc bằng những biện pháp này.

Cùng với những người có quốc tịch khác, người Việt đang bị tạm giam, trên đất liền, hay trên đảo Christmas hoặc các đảo khác ở Thái Bình Dương như Nauru và Manus. Gia đình và trẻ em không có người đỡ đầu được tạm giữ trong cơ sở giam giữ an ninh thấp. Bốn người Việt Nam, trong đó có một thiếu niên, đã trốn thoát khỏi một trung tâm như vậy ở Darwin vào đầu tuần này, theo nhà chức trách.

Úc muốn phản ứng cứng rắn với ngượi vượt biển từ Việt dường như đã gặp phải một vấn đề: Chính phủ tại Hà Nội cho thấy họ không hứng thú trong việc nhận lại người tị nạn, theo các người hoạt động và các luật sư.

Úc không thể đơn giản đem người vượt biển lên máy bay đưa về Hà Nội. Họ, người vượt biển, cần phải có giấy tờ do giới cầm quyền Việt Nam cấp, và Hà Nội đầu tiên phải xác nhận căn cước của những người này.

Trong số 101 người Việt Nam vượt biển đến Úc vào năm 2011, đến nay chỉ có sáu bị trả lại cho Việt Nam. Rất ít người, nếu có, đã được cấp căn cước tị nạn, luật sư và các người hoạt động cho hay.

Nguồn: 2013 DCVOnline

18.5.13

Chân Dung Người Chiến Sĩ Việt Nam Cộng Hòa !

               
Hình ảnh người Chiến Sĩ Việt Nam Cộng Hòa, đã được gắn kết với Chính Thể Việt Nam Cộng Hòa và Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa, được thành lập vào năm 1955. Kể từ đó, miền Nam tự do đã được Thế giới biết đến, là một Quốc Gia Việt Nam Cộng Hòa và Thủ Đô Sài Gòn là Hòn Ngọc Viễn Đông. Người Chiến Sĩ Việt Nam Cộng Hòa đầu tiên là: người Chiến Sĩ Bảo An, mà người dân thôn quê thường gọi là Chiến Sĩ Cộng Hòa, hoặc Lính Cộng Hòa.


Sau này, Lực lượng Bảo An Đoàn đã trở thành Địa Phương Quân. Ngày ấy, người Chiến Sĩ Bảo An, ngoài nghĩa vụ cầm súng để bảo vệ miền Nam tự do, bảo vệ đồng bào, người Chiến Sĩ Bảo An đã từng đi đến những thôn làng xa xôi, để giúp đỡ các địa phương xây dựng Hành chánh, để giải thích cho dân chúng biết đến một Chính Thể mới, vừa được khai sinh tại miền Nam: Chính Thể Cộng Hòa. Đồng thời, người Chiến Sĩ Việt Nam Cộng Hòa đầu tiên ấy, còn súng trên vai, tay đốn tre rừng để bắc những chiếc cầu tre trên những con suối, ở tận hương thôn để nối đôi bờ...

Nối những cánh đồng lúa, những nương dâu để những ngày mưa lũ, người dân quê đi làm công việc nông tang, không còn phải lội giữa giòng nước xoáy hiểm nguy và để cho những nam, nữ Thanh Niên Cộng Hòa giữa đôi bờ dễ dàng gặp gỡ, để cùng trao đổi với nhau về Thể Chế Cộng Hòa vừa mới được khai sáng tại miền Nam. Đặc biệt là những hình ảnh ở hương thôn, giữa cảnh thanh bình -tự do -no ấm bên lũy tre làng, với những đêm về, dưới ánh trăng lành tỏa sáng trên khắp nẻo đường quê, luôn luôn rộn rã những tiếng cười, tiếng sáo trúc và tiếng đàn Mandoline, hòa cùng tiếng hát ngân vang, đón chào Đất nước đã được hồi sinh sau bao cơn binh lửa, với bài ca:

Dựng Một Mùa Hoa: Chào bình minh hoa ban mai lả lơi. Nhạc dịu êm vang dư âm ngàn nơi. Bên khóm tre tươi, chim hót hoa cười trong nắng yêu đời. Bầy trẻ thơ yêu quê hương đầy vơi. Đồng ruộng tươi vươn lên bao nguồn mới. Sóng lúa chơi vơi, xanh ngát chân trời, dịu màu đẹp tươi. Đây phương Nam, bao la dịu dàng, say sưa câu hoan ca nhịp nhàng. Duyên xưa còn thắm, chung xây cuộc sống, chan chứa mênh mông. Tình miền Nam như hoa Lan đầy hương. Tìm tự do, chim tung bay ngàn hướng. Đây đó vui ca, trong nắng chan hòa. Dựng Một Mùa Hoa.

Đầu năm 1956, khi sắp sửa đến ngày Bầu cử Quốc Hội Lập Hiến, vào ngày 4-3-1956; sau đó, Bản Hiến Pháp Việt Nam Cộng Hòa, do Quốc Hội Lập Hiến biểu quyết ngày 20-10-1956, đã được ban hành ngày 26-10-1956, với đầy đủ Tam quyền Phân lập: Lập Pháp - Hành Pháp và Tư Pháp, thì người Chiến Sĩ Bảo An lại đến với người dân quê, bằng những câu ca dao, để cho người dân ý thức được cuộc bầu cử sắp tới như sau:

“Dù ai buôn bán nơi đâu

Tháng Ba, mồng Bốn, rủ nhau đi bầu.

Dù ai mua bán trăm bề

Tháng Ba, mồng Bốn, nhớ về tham gia.

Bầu cử Quốc Hội nước nhà

Cộng Đồng - Nhân Vị - Quốc Gia hùng cường”.

Song nói đến người Chiến Sĩ Bảo An, mà không nhắc đến người Chiến Sĩ Dân Vệ là một điều vô cùng thiếu sót. Bởi, Lực lượng Dân Vệ là một Lực lượng vũ trang, trực tiếp đối đầu với “Lực lượng Du Kích” của Việt cộng, mà khởi đầu là “Du Kích Ba Tơ”, và là tiền thân của “Lực lượng vũ trang Liên khu 5”, do tướng Việt cộng Nguyễn Chánh cầm đầu. Sau này “lực lượng du kích” trực tiếp cầm súng, đối đầu với Dân-Quân của miền Nam, tại những vùng rừng núi xa xôi. -Người Chiến Sĩ Dân Vệ, mà sau này đã trở thành Lực Lượng Nghĩa Quân.

Ngày ấy, hàng đêm người Chiến Sĩ Dân Vệ luôn luôn tay ghì khẩu súng Mas-36, vai mang những quả lựu đạn chày, đi tuần, canh ở những trạm gác, nơi có những chiếc cổng của bờ rào Ấp Chiến Lược, để bảo vệ sinh mạng và tài sản của đồng bào, vì bọn Du Kích thường tìm cách lẻn xuống các làng thôn để cướp gạo, muối, thực phẩm của đồng bào, đem lên rừng để sống. Đó là những Chiến Sĩ của Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa, đã góp máu xương trong công cuộc bảo vệ miền Nam tự do, bảo vệ đồng bào ruột thịt và họ đã chết trong âm thầm, không bia đá.

Thế rồi, kể từ sau ngày Nền Đệ Nhất Việt Nam Cộng Hòa bị xụp đổ, thì các Chiến Sĩ Bảo An và Chiến Sĩ Dân Vệ, đã bị người ta cố tình đưa vào quên lãng !!! Thế nhân thường nói: -Mất rồi mới biết quý, mới biết tiếc !. Giờ đây, sau khi Nước đã mất, nhà đã tan; qua những cảnh đời tang thương, dâu bể, khi ngược dòng thời gian trở về với một thưở thanh bình, mà không bao giờ còn tìm thấy lại, dù chỉ một lần nào nữa, thì chắc đa số những người con dân nước Việt sẽ thấy quý, thấy tiếc Vị Tổng Tư Lệnh đầu tiên của Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa:

Tổng Thống Ngô Đình Diệm, đã bị giết chết vào ngày 1-11-1963, chỉ vì Người đã kiên quyết bảo vệ Chủ quyền của Đất nước. Chính ngày này, nước Việt Nam Cộng Hòa đã đứng trên bờ của vực thẳm, để rồi, cho đến ngày 30-4-1975, thì cả nền móng của nước Việt Nam Cộng Hòa đã hoàn toàn xụp đổ, rơi ngay xuống tận đáy vực sâu, mà do ngoại nhân với sự tiếp tay của những kẻ vong-nô, vô cùng tàn độc, dã man đã đào sẵn, để vùi chôn một công trình vĩ đại, mà đã được đắp xây bằng cả máu xương của người Chiến Sĩ Việt Nam Cộng Hòa !!!

Những Chiến Sĩ Việt Nam Cộng Hòa đã “biến mất”, sau ngày 1-11-1963:

Đó là những Chiến Sĩ đã hy sinh tất cả, khi chấp nhận rời xa mái ấm gia đình tại miền Nam tự do, để đi vào vùng đất địch, không hẹn ước một ngày trở về nơi chốn cũ !!! Vậy, không có gì bằng là hãy đọc, để như nghe lại những lời nói của năm nào, vào đêm mồng 6, tháng 8, năm 1960, tại một nơi bí mật; song có mặt của Cố Đại Tá Lê Quang Tung, đứng lên hô to khẩu hiệu: “Trung thành với Tổ Quốc - Xả thân vì lý tưởng Quốc Gia”. Sau đó, các Chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa đã hô theo. Khi những tiếng hô chấm dứt, thì Ông Cố vấn Ngô Đình Nhu đã đọc những lời tiễn đưa các Chiến Sĩ đi vào vùng đất địch như sau:

“Các bạn ra đi hôm nay, là đã vượt ra khỏi tầm bảo vệ của Chính phủ. Ra đi, có thể các bạn không hẹn ngày về. Những người con ưu tú của Dân tộc, đêm nay giã từ Thủ Đô, để lao vào vùng địch, chiến đấu cho tự do và độc lập của Tổ Quốc, cho hòa bình. Vì hẳn các bạn cũng biết: Việt Nam là tiền đồn của Thế giới Tự do. Các bạn là những Chiến Sĩ Tiên Phong, đi chiến đấu ngay trong lòng địch; để ngăn chặn làn sóng cộng sản xâm nhập vào Nam, tiến đánh hậu phương chúng ta. Đây là một sứ mạng hết sức to lớn, và rất đáng cảm phục. Thay mặt Tổng Thống, thay mặt Chính phủ, tôi trân trọng gởi đến các bạn: lời khen ngợi ý chí vô cùng cam đảm của các bạn, lòng yêu Nước vô bờ bến của các bạn, khi đơn thương, độc mã dấn thân vào đất địch, để chịu trăm ngàn nguy hiểm, mà không được một sự yểm trợ nào cả. Xin cầu chúc các bạn vượt qua mọi gian lao, nguy hiểm và thành công trong sứ mạng”.

Và cũng tương tự như thế, là những Chiến Sĩ đã được cài lại ở miền Bắc trước ngày 20-7-1954, hoặc có những Chiến Sĩ đã tình nguyện quay trở về miền Bắc, ngay sau khi mới di cư vào miền Nam. Những Chiến Sĩ này đã do Ông Phan Quang Đông và Ông Ngô Đình Cẩn sắp xếp, và bí mật lo cho đời sống của họ, khi họ phải sống trong lòng đất địch tại miền Bắc. Nhưng đau đớn thay, bởi sau khi Nền Đệ Nhất Việt Nam Cộng Hòa bị xụp đổ, Ông Phan Quang Đông và Ông Ngô Đình Cẩn bị giết chết. Vì thế, tất cả những Chiến Sĩ này đã bị chặt tay, chặt chân, cắt đứt con đường về; họ phải tự tìm cách để sống trong mỏi mòn, chờ đợi.

Cho đến ngày 30-4-1975, khi miền Nam tự do đã rơi vào tay của cộng sản Bắc Việt; thì các Chiến Sĩ này đã hoàn toàn tuyệt vọng; nên có người đã chết trong tức tưởi, trong đau đớn khôn nguôi. Và cho đến tận hôm nay, những người thân của họ, cũng không hề biết nắm xương của những người Chiến Sĩ ấy, đã bị vùi lấp ở nơi nào trên đất Bắc ???!!! Ôi ! Còn gì đau xót và phũ phàng hơn; nếu một mai, Quê Hương ta có tái lập được một nước Việt Nam, với thể chế pháp trị hẳn hoi, thì thử hỏi, có còn ai nhắc -nhớ đến những người Chiến Sĩ đã từng dấn thân vào lòng đất địch, sống cùng với những gian nan, nguy hiểm và chết trong âm thầm, lặng lẽ, lãng quên !!!

Hình ảnh tiếp nối của Người Chiến Sĩ Việt Nam Cộng Hòa:

Sau ngày Vị Tổng Tư Lệnh đầu tiên của Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa: Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã Vị Quốc Vong Thân; để tiếp tục bảo vệ miền Nam tự do, bảo vệ đồng bào, người Chiến Sĩ vẫn tiếp tục lao mình vào nơi chiến trường lửa khói mịt mù, cận kề với cái chết. Người Chiến Sĩ Việt Nam Cộng Hòa đã đi vào những Trang sử Hào hùng của Dân tộc, với những trận đánh làm khiếp vía quân thù như: Bình Long, An Lộc, v.v… -Người Chiến Sĩ Việt Nam Cộng Hòa đã hiên ngang, oai hùng, ngạo nghễ đứng trên Cổ thành Quảng Trị, để cắm lá Cờ Vàng ba Sọc Đỏ thân yêu như bài hát Cờ bay trên Cổ thành Quảng Trị:

“Cờ bay, cờ bay, oai hùng trên thành phố thân yêu. Vừa chiếm lại đêm qua bằng máu. Cờ bay, cờ bay tung Trời, ta về với Quê Hương. Từng ngóng đợi quân ta tiến về…”. -Người Chiến Sĩ Việt Nam Cộng Hòa đã vượt phi đạo, tung cánh “chim bằng” đi vào cõi chết, để bảo vệ vùng Trời miền Nam tự do. - Người Chiến Sĩ Việt Nam Cộng Hòa đã rời xa đất liền, xa mái ấm gia đình, sống lênh đênh trên mặt trùng dương ngút ngàn khói sóng. Máu xương của người Chiến Sĩ đã hòa quyện và vùi chôn nơi đáy nước, trong trận Hải chiến 1974, để bảo vệ Hoàng Sa, hải đảo, bảo vệ hải phận Việt Nam.

-Người Chiến Sĩ Việt Nam Cộng Hòa tay súng, vai khoác ba lô, tung cánh dù, nhảy xuống vùng đất địch, bất chấp mọi hiểm nguy. -Người Chiến Sĩ Việt Nam Cộng Hòa anh dũng đánh đuổi quân thù, tái chiếm Cố đô Huế, Tết Mậu Thân, 1968. Người Chiến Sĩ Việt Nam Cộng Hòa đi tìm, đào từng hố, hầm tập thể để tìm lại xương xác của đồng bào ruột thịt thân yêu. -Người Chiến Sĩ Việt Nam Cộng Hòa, đã “quên mình cứu người” băng bó vết thương cho Đồng đội. - Người nữ Chiến Sĩ Việt Nam Cộng Hòa đã không ngại gian nan, vì “Giặc đến nhà, đàn bà cũng phải đánh”, để góp bàn tay vào công cuộc bảo vệ miền Nam Tự Do.

-Người Chiến Sĩ Việt Nam Cộng Hòa, đã đem sinh mạng của mình để bảo vệ đồng bào ruột thịt, trên khắp Bốn vùng Chiến thuật, ở những vùng nông thôn, nơi biên phòng, giới tuyến từ Ấp Bắc, An Lộc, Gio Linh, Khe Sanh, Pleime, A Sao, A Lưới, Trà Bồng, Minh Long, Ba Tơ, An Phước, An Điềm, Khâm Đức, Hậu Đức, v.v… Song bên cạnh những chiến công lẫy lừng ấy, có mấy ai hình dung được hình ảnh của người Chiến Sĩ Việt Nam Cộng Hòa, đã một thời ngày đêm ghì chặt tay súng, trên những vọng gác, ở những nơi tiền đồn heo hút gió; để rồi liên tưởng đến hình ảnh của người Chiến Sĩ đã bị cộng quân bắn tỉa, trong lúc các Anh đang hướng tầm mắt, để quan sát những di chuyển của địch quân.

Bởi vậy, các Anh đã trúng đạn của địch, và thân xác của người Chiến Sĩ đã nhuộm đầy máu đỏ, đã thấm đẫm chiến bào, và người Chiến Sĩ đã rơi từ trên chòi cao của vọng gác, xuống nền đất lạnh, trên những bụi gai sắc nhọn giữa rừng khuya, thân xác của người Chiến Sĩ lại phải chịu thêm những vết thương khác, do những nhánh gai rừng đã đâm sâu vào châu thân, máu của người Chiến Sĩ đã chan hòa từ vết đạn thù, đã ứa ra từ những mũi gai rừng, trước khi gục chết tức tưởi giữa núi rừng hoang lạnh. Người Chiến Sĩ Việt Nam Cộng Hòa đã đem máu xương của mình, để bảo vệ Quê Hương.

Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa với những hy sinh vô bờ bến. Đặc biệt, những đơn vị đã từng đối đầu với cộng quân, ở những nơi biên phòng, giới tuyến. Ở những nơi ấy, suốt ngày đêm người Chiến Sĩ phải đối đầu với không biết bao nhiêu những gian nan, nguy hiểm. Người Chiến Sĩ phải mắc võng ngủ trên những cành cây để tránh thú dữ, nhưng không khỏi phải làm mồi cho muỗi, vắt. Trên những lối hành quân, mỗi khi dừng bước, người Chiến Sĩ đã phải dùng chiếc nón sắt của mình, múc nước từ những giòng suối, đổ vào bao gạo sấy để ăn cho đỡ đói.

Song cũng có những lần, khi những hạt gạo sấy chưa kịp nở thành cơm, thì đơn vị đã lọt vào ổ phục kích của cộng quân. Để rồi sau đó, có những Chiến Sĩ đã phải ôm xác Đồng đội của mình, với bao gạo sấy chưa kịp mở ra, mà nhỏ lệ khóc thương Đồng đội đã chết, trong khi bụng đang đói !!! Ngày ấy, một thời chinh chiến, nếu ai đã từng đến các đơn vị biên phòng, giữa tiếng đạn pháo đì đùng, với những đêm nhìn ánh hỏa châu soi sáng các vùng rừng núi hoang vu, và treo lơ lửng trên những vọng gác quanh các tiền đồn, thì chắc chắn đã thấy được toàn cảnh là những bức tranh, với những nét điểm xuyết thật tuyệt vời.

Đồng thời, cũng thấy được những hy sinh vô bờ bến của người Chiến Sĩ Việt Nam Cộng Hòa đang nằm sương, gối súng ngay giữa đôi bờ sống-chết, hiểm nguy. Sinh mạng của người Chiến Sĩ cũng vô cùng mong manh. Bởi bất cứ lúc nào các Anh cũng có thể bị quân địch tấn công, và có thể sẽ vĩnh viễn bị vùi thây nơi chiến địa !!! -Người Chiến Sĩ Việt Nam Cộng Hòa là tất cả những gì cao đẹp nhất, hào hùng nhất. Người dân của miền Nam tự do, đã từng chứng kiến những hình ảnh của người Chiến Sĩ Việt Nam Cộng Hòa, vai mang súng, tay bế em thơ, tay dìu dắt cụ già giữa vùng lửa đạn.

-Chiến Sĩ Việt Nam Cộng Hòa, không phải chỉ có những Sĩ quan, mà tất cả những người đã từng cầm súng để bảo vệ từng tấc đất của Quê Hương, hoặc đã từng kề vai, sát cánh bên người Chiến Sĩ, qua những công tác: Tâm Lý Chiến, Công Dân Vụ, Dân Sự Vụ, Dân Ý Vụ… Họ có thể là những Nông phu, song đã ý thức được bổn phận của một con dân nước Việt trong cơn nguy biến, nên có những người dân, khi bất ngờ gặp được người Chiến Sĩ trong lúc lỡ bị lạc trong rừng, sau một trận giao tranh với quân địch và họ đã nuôi giấu, để sau đó, người Chiến Sĩ được bình an trở về với đơn vị. Họ có thể là:

Người Mẹ, người vợ, người anh, người chị, người em; song khi lâm cảnh ngộ, trong những lần tấn công của quân địch, lúc cùng đường phải tử thủ, họ đã cùng sống-chết bên người Chiến Sĩ, họ đã biết xử dụng những quả lựu đạn M.26, để tiêu diệt quân thù, để mở đường máu thoát thân. Hết thảy họ đều là Chiến Sĩ. Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa không phải chỉ có Lục Quân, mà còn có các Lực lượng như: Quân Cảnh, Cảnh Sát, Cán Bộ Xây Dựng Nông Thôn… Riêng về Lực Lượng Nhân Dân Tự Vệ, khi thành lập sau Tết Mậu Thân, 1968, có lẽ mọi người đã nhìn thấy hình ảnh của những Nữ Đoàn viên Nhân Dân Tự Vệ, vai mang khẩu súng Carbine M-1, M-2, trông chẳng khác biệt những Thanh Nữ Cộng Hòa của một thuở nào là mấy.

Lực lượng này, đã trực tiếp đối đầu với Du kích Việt cộng ở những vùng thôn quê, hẻo lánh. Một hình ảnh, mà chắc chắn mọi người đều đã biết. Đó là hình ảnh của những Chiến Sĩ Nhân Dân Tự Vệ tại Hố Nai. Họ đã không rời tay súng, cho đến giờ phút cuối cùng của cuộc chiến. Song tiếc rằng: khi họ đã bị tử thương bởi những viên đạn của quân thù, thì chẳng có ai nhắc đến !!!

Người Chiến Sĩ Việt Nam Cộng Hòa và ngày mất nước: 30-4-1975

Vào một thời oanh liệt, với những chiến công lừng lẫy, làm quân thù phải bạt vía, kinh hồn. Lúc ấy, người Chiến Sĩ Việt Nam Cộng Hòa làm sao có thể nghĩ đến một ngày, họ phải buông súng trong uất hận, đau thương !!! Thế nhưng, sự thật đã xảy ra. Trước ngày mất Nước, người Chiến Sĩ Việt Nam Cộng Hòa đã phải chịu những cảnh bi thương nhất, khi bắt buộc phải buông súng, thì có các vị đã “chết theo thành”, một số may mắn được ra Hải ngoại; còn đa số thì đã phải vào các nhà tù “cải tạo” của Cộng sản Hà Nội, đã phải chịu cảnh hành hạ, đọa đày, cùm kẹp, đói khát, lạnh lẽo, hoặc trở thành người tàn phế, hay đã bỏ mình trong các nhà tù.

Song chưa đủ, bởi còn gì đau thương hơn, còn ngôn từ nào để viết và còn có dòng nước mắt nào, để khóc cho vừa, với hình ảnh của những người Chiến Sĩ đã chết, trong khi đôi chân vẫn còn bị siết chặt, vẫn còn rỉ máu trong hai chiếc cùm, treo trên những chiếc thanh sắt, thân thể quắt queo trên nền gạch lạnh lẽo của phòng biệt giam tăm tối; để rồi sau đó, nắm xương tàn của người Chiến Sĩ đã bị vùi chôn, bên cạnh những bờ rào kẽm gai oan nghiệt của trại tù “cải tạo”, trên khắp vùng núi rừng từ Nam chí Bắc !!! Nhưng hôm nay, và mãi mãi cho đến ngàn sau, dẫu thế nhân có viết đến cả hàng nghìn trang sách, cũng không làm sao diễn đạt một cách trọn vẹn, những gì mà người Chiến Sĩ Việt Nam Cộng Hòa đã phải gánh chịu khi bị sa cơ, thất thế, ở trong các nhà tù “cải tạo”.

Bởi, chỉ có chính các vị đã từng qua các nhà tù của cộng sản Hà Nội, thì mới thấu hết được những nỗi đau đớn kinh hoàng ấy; vì “Đoạn trường ai có qua cầu mới hay”!. Chẳng những thế, mà ngày đi vào nhà tù “cải tạo”, thì đã có không ít những Chiến Sĩ đã bị mất cả nhà cửa, vợ con !!! Tuy nhiên, ngoài những cảnh đời bi thảm ấy, đã có rất nhiều Chiến Sĩ được gia đình hết lòng lo lắng. Những người Mẹ, người vợ, người con, người anh, người chị, người em của người Chiến Sĩ đã băng rừng, vượt suối đi đến tận những nơi rừng thiêng, nước độc để mang đến cho người thân của họ những món quà. Song đặc biệt và cao quý nhất, vẫn là những món quà tinh thần.

Vì đó, chính là “món ăn” đã nuôi sống người tù “cải tạo”, để người Chiến Sĩ có đủ niềm tin và hy vọng, chờ đợi một ngày trở về, xum họp với gia đình. Và giờ đây, người Chiến Sĩ Việt Nam Cộng Hòa, đã một thời tung hoành trên khắp chiến trường xưa, đang sống nơi Hải ngoại; dù mái tóc đã bạc mầu, đôi mắt không còn tinh tường nữa; song ý chí quang phục Quê Hương vẫn không hề thay đổi. Vì thế, đa số đã và đang dấn thân vào con đường tranh đấu cho một nước Việt Nam Tự Do-Dân Chủ thực sự. -Người Chiến Sĩ Việt Nam Cộng Hòa, sống đời lưu vong, nhưng ngày đêm vẫn vọng tưởng Cố Hương, vẫn nhớ tiếc về những năm tháng của một thuở đã xa, mà lòng rưng rưng, mà tim quặn thắt; bởi chỉ còn biết tìm lại qua những câu hát, lời thơ của một thời đã mất:

Đẹp thay, Chính Thể Cộng Hòa

Vui thay tiếng hát, câu ca Thanh Bình

Cộng Hòa như ánh Bình Minh

Như dòng nước mát, như tình lúa xanh./.



Hàn Giang Trần Lệ Tuyền













khí thế căm giận hừng hực của dân chúng

Ngày 19 tháng Tư, vài chục quan chức của thành phố Thái Châu, tỉnh Giang Tô (Trung Quốc), tổ chức một buổi tiệc lớn trong khu công nghiệp Tân Giang đang được mở rộng. Đây không phải là một sự kiện đáng được dư luận chú ý, nếu không có những diễn biến mà ấn bản Tiếng Anh Shanghai Daily của Thượng Hải Nhật Báo (số ra ngày 20 tháng Tư)  nói là đã xảy ra sau đó.   Theo bản tin tiếng Việt của Nguyên Thúy dựa trên một bài tường thuật trên mạng China.org.cn và được đăng trên báo mạng Việt Nam Thanh Niên.online ngày 23 tháng Tư,  thì sau đây là những sự kiện đã gây chấn động trong dư luận địa phương: Trong lúc bữa tiệc đang diễn ra trong phòng ăn lớn sang trọng của trụ sở Ban Quản lý Khu công nghiệp, hơn 1000 nông dân bất ngờ kéo tới tập trung trước cổng lớn. Kế đó họ đóng cổng không cho ai ra vào, rồi hò hét, giương biểu ngữ chống tham quan ô lại do chính đảng CS TQ đề xướng, đoạn xông vào giữa phòng tiệc, đồng thanh hô khẩu hiệu đả đảo tham nhũng.   Hoảng hốt trước khí thế căm giận hừng hực của dân chúng, các lực lượng bảo vệ lủi mất, có người đứng vào hàng ngũ những người phản đối. Quá khiếp sợ, quan chức cấp cao nhất trong bữa tiệc là bí thư đảng ủy đảng Cộng sản khu công nghiệp Tân Giang Trương Ái Hoa đột nhiên quỳ xuống, khiến các quan lớn nhỏ khác phát hoảng cũng quỳ theo,và tất cả đã vái lạy quần chúng nông dân, xin tha tội chết.  Bài báo ghi lời của quan lớn họ Trương như sau: «Chúng tôi sai, các ông các bà bảo chúng tôi làm gì cũng được, nhưng xin cho chúng tôi ra khỏi nơi này ». Cùng với bản tin vừa kể, Shanghai Daily còn đăng một bức ảnh về sự kiện hiếm có này. Nhưng ngoài báo Shanghai Daily, dư luận chưa ghi nhận được một phương tiện truyền thông thuộc lề phải nào khác ở TQ đưa tin về sự kiện hiếm có này. Riêng tại Việt Nam, ngoài bản tin của Nguyên Thúy, người ta cũng chưa thấy có một cơ quan thống tấn chính thức nào của nhà nước tường trình về vụ phản đối của nông dân Thái Châu.  Nhưng điều đáng chú ý hơn cả là chính bản tin này trên mạng Thanh Niên.online sau đó cũng đã được rút xuống.  Cũng theo báo Shanghai Daily, nông dân Thái Châu đã quyết định có phản ứng quyết liệt như thế sau khi được tin một bữa tiệc đã được đặt hàng từ một khách sạn 5 sao, với thực đơn đặc biệt sơn hào hải vị độc đáo, có thuốc lá cao cấp và rượu ngoại, mỗi bàn tiệc 8 xuất có giá 10.000 nhân dân tệ, tức tương đương với khoảng 1.612 $ đôla Mỹ. Họ muốn bắt tận tay day tận cánh với đầy đủ tang chứng về cảnh ăn chơi hưởng lạc của bọn quan quyền trong Khu công nghiệp Tân Giang, thông đồng với bọn quan chức Cộng sản của tỉnh, huyện và thành phố địa phương, ăn chơi phè phỡn trên mồ hôi nước mắt của nông dân lao động.  Báo Shanghai Daily cho biết thêm: Những người lãnh đạo nông dân sau khi được các quan lớn quỳ gối cúi đầu vái lạy như tế sao, đã bắt chúng viết lời tự thú tỷ mỷ có ký tên đàng hoàng ở bên dưới. Họ còn chụp ảnh, ghi lời các nhân chứng suốt từ tối cho đến 23 giờ đêm mới cho bọn thực khách ra về. Sau đó họ đem thức ăn chưa kịp tiêu thụ phân phát cho các gia đình nghèo ở quanh khu công nghiệp. Trong bài bình luận đi kèm bản tin trên, Shanghai Daily nhận định: Các lực lượng bảo vệ, an ninh, công an, quân đội của chế độ độc đảng tham nhũng đến lúc nào đó sẽ không còn là lực lượng tin cẩn của bọn tham nhũng, họ sẽ chuyển sang ủng hộ nông dân, ủng hộ và phối hợp với những công dân lương thiện để cùng xây dựng một xã hội mới công bằng và trong sáng. Bài bình luận nhắc đến khẩu hiệu của đông đảo nhân dân xuống đường ở Tunisia và Ai Cập gửi lực lượng an ninh và quân đội: Đừng làm chó giữ nhà cho bọn tỷ phú mới!.  Đây là một khẩu hiệu rất có tác dụng, dẫn đến việc quân đội Ai Cập chính thức tỏ thái độ 3 điểm giữa cuộc đấu tranh là: không bắn vào dân, bảo vệ dân và tán thành cuộc xuống đường của nhân dân, đòi thay chế độ độc đảng bằng chế độ đa đảng trong ôn hòa.


(mong rằng quân đôị và
công an cộng sản Viêt Nam nên theo gương quân đội Ai Cập và
Tunisia ) " nghe nói là chính quyền Cộng sãn Việt Nam mướn
bọn du đảng Tàu làm Công an dể bảo vệ chế độ độc đãng cho
nên bọn công an Tàu đánh  dân Việt Nam không thương tiếc" 

16.5.13

MẤY LÁ BÀI MỚI CỦA MỸ Ở VIỆT NAM . ÐÃ ÐẾN THỜI CSVN SỤP ÐỖ

MẤY LÁ BÀI MỚI CỦA MỸ Ở VIỆT NAM


ÐÃ ÐẾN THỜI CSVN SỤP ÐỖ, MỸ TÍCH CỰC DẤN TỚI

HÀ NHÂN VĂN

Sau khi bộ Ngoại giao Hoa Kỳ long trọng trao giải thưởng "Phụ nữ dũng cảm" trên thế giới cho Tạ Phong Tần, Uncle Sam lật một lá bài nho nhỏ trên bàn, phe Thái thú Nguyễn Phú Trọng hụt hẫng, vô phương phản bác: Phó Đô đốc (3 sao), bộ Tư lệnh Tuần duyên Hoa Kỳ trong một hội nghị, tuyên bố tuần duyên Hoa Kỳ sẵn sàng giúp VN, bảo vệ ngư dân VN đánh cá xa bờ trong hải phận trên biển Đông. Tin này loan tải qua đài VOA và RFA, như điện giật, như sấm chớp loan nhanh khắp miền duyên hải VN với hơn 5 triệu ngư dân đang khốn khổ ở ngõ cụt xa bờ do các tàu hải giám TC bắn phá ngăn cản, đang bừng bừng sống dậy coi "ông Mỹ" như Thần biển cứu độ. Những lời đồn đại thêm hoa lá cành như trận gió Nồm thơm mùi sinh khí mới trên sinh lộ mới giữa biển cả: "Tàu Mỹ sắp tới bảo vệ ta, bà con ơi!" Một vị linh mục cao niên ở Qui Nhơn cho biết như thế.

Thì đúng rồi, VOA vừa loan tin tàu chiến Mỹ USS Freedom đã neo ở cảng Tân Gia Ba, sẵn sàng rồi đấy! Tàu chiến Mỹ lại vừa cập bến Tiên Sa. Cứ thế, một đồn 10, mười đồn 100! Nói với ngư dân và nông dân về tự do, dân chủ nhân quyền đâu hấp dẫn bằng "bát cơm đầy với khúc cá to!" Dân đảo Lý Sơn (Cù lao Ré) mở hội lễ tưng bừng tuần trước để biểu dương khí thế "bám biển". Ngoại trưởng Phạm Bình Minh cùng phái đoàn bay qua đảo tham dự, dân đảo hoan hô vang dội như bão tố, nhất là chàng Ngoại trưởng trẻ tuổi này, lớn tiếng đầy hào hùng nói mấy tiếng “Kẻ Thù của chúng ta”, dân Lý Sơn cuồng nhiệt vỗ tay! Tuy không nói đích danh kẻ thù ấy là ai nhưng ai ai cũng hân hoan hiểu rằng đó là Trung Cộng. Xưa (1990) cha Phạm Bình Minh (PBM) là NT Nguyễn Cơ Thạch gọi đích danh Bắc Kinh là giặc Bắc. Nay con PBM sẽ thế nào?
     
Khu trục hạm USS Chung-Hoon cập bến Tiên Sa

Một cái gai trước mắt Bắc Kinh. Cho đến nay, chàng trai trẻ "Mỹ du" này vẫn bị Bắc Kinh chặn không cho vào bộ CT-ĐCSVN.

Nên lưu ý, bộ Tư lệnh Tuần duyên Hoa Kỳ (The Coast Guard) trực thuộc bộ Giao thông (DOT), kinh nghiệm báo chí cho biết, tàu phá mìn "The Cutter" của Tuần duyên đen nơi đâu là báo trước biến cố lớn sẽ xảy ra như chiến tranh vùng Vịnh, Iraq, A Phú Hãn hoặc mang một tín hiệu báo cho đối thủ biết "Hoa Kỳ đang có mặt, đừng có xớ rớ" (American is here!).

Năm 2012, tàu Tuần duyên "The Cutter" đến Phi Luật Tân, neo ở bờ biển Palawan. Nay, chỉ cần một Đô đốc tuần duyên Mỹ bắn tiếng, sẽ giúp ngư dân VN đánh bắt cá xa bờ được an toàn. Đại sứ David Shear ở Hà Nội đã lượm được trên 5 triệu phiếu của ngư dân Việt giơ cao tay "American Number One", không kể hàng triệu người liên hệ đến ngư nghiệp. Đây là vấn đề nhân đạo, vị Đô đốc tuần duyên thuộc bộ giao thông bắn tiếng mà không phạm luật. Phe Thái thú đầy tớ Bắc Kinh ở Hà Nội có dám từ chối đề nghị này không? Nếu từ chối thì ngư dân miền Trung sẽ đào mả ông bà cha mẹ chúng đổ xuống sông biển. Đây là một trong mấy chiến thắng của Mỹ "bất chiến tự nhiên thành" ở VN sau 38 năm VNCH sụp đổ.


Con cháu “Bác” hân hoan chào đón “Ðế quốc Mỹ” trở lại.

KHI HOA KỲ CÔNG NHẬN HOÀNG SA CỦA VIỆT NAM

John Kerry, Ngoại trưởng Mỹ đã khác một Kerry phản chiến trước đây, khác Kerry Nghị sĩ liên tục bảo trợ cho VNCS gần 20 năm. Ngồi vào ghế ngoại trưởng, Kerry phải theo định hướng của Uncle Sam với 2 mục tiêu quan trọng nhất trong chiến lược toàn cầu mà thế kỷ 21 được mô tả là thế kỷ Á châu và bây giờ thêm lục địa Phi châu: 1. Trở lại Á châu TBD như quí độc giả đã rõ. 2. Cùng với đồng minh Anh, Pháp và Đức, tranh thủ Phi châu, dầu hỏa, tài nguyên nông dân và quặng mỏ.

Hơn 20 năm qua, lợi dụng Mỹ và Tây Âu bỏ ngỏ Phi châu, Mỹ bị lôi kéo rồi chìm đắm vào 3 cuộc chiến vùng Vịnh, Iraq và A Phú Hãn, không kể cuộc chiến chống khủng bố, tốn kém khủng khiếp, Bắc Kinh được dịp thơ thới tung cánh rồng Đỏ bay về 10 phương 9 hướng với đại chiến lược Go Out, Phi châu là chính yếu.

Năm 2001, TQ chi 70% vốn liếng cho dầu khí. Nay thì TQ khựng lại (2013), do lối làm ăn quốc tế không thành thật, lắt léo, quá tham lam, thiếu kinh nghiệm (xem: "China's Go-Out strategy". Oil magazine, Dec, 2012, pp. 40-42).

TQ đã mất Lybia, đang gặp khó khăn ở Nam Sudan và kể cả Angola và Algeria ... Đó là lý do một mất một còn, Bắc Kinh phải lao xuống Biển Đông và nhoài qua liên minh với Putin Nga

Sô. Nếu không có Mỹ OK thì Mao - Chu không dám liều lĩnh đánh chiếm Hoàng Sa của VNCH năm 1974. Không đoàn khu trục, vùng I CT (ở Đà Nẵng) đã bị chặn không cho cất cánh tấn công hạm đội TC tiến chiếm Hoàng Sa, dù vị Chuẩn tướng Tư lệnh nôn nóng trong cánh chim sắc cho quân xâm lăng TC biết tay không quân VNCH (đó là lý do vị Chuẩn tướng Tư lệnh quá uất hận, định cư ở Montreal, Canada mà không vào Mỹ, ông đã mang mối hận lòng cho đến khi qua đời).

Với máu Đại Hán xâm lược, quá hung hăng nên Bắc Kinh phạm vào sai lầm nghiêm trọng mà Mao Trạch Đông, Chu Ân Lai và Đặng Tiểu Bình đã tránh được để tiến hành chiến lược vết dầu loang: Không thách đố Mỹ, hòa hoãn với Nhật để phát triển "Đại dương Nam tiến" sau khi được Nixon - Kissinger bật đèn xanh cho chiếm Hoàng Sa của VN để làm một chốt chiến lược chống Liên Xô ở Biển Đông. Hồ Cẩm Đào quá yếu, chỉ là một đại thư lại để cho các ông Tướng chủ động tung hoành, ngang ngược tiến nhanh xuống Biển Đông, lợi dụng Mỹ bị cầm chân ở A Phú Hãn và Trung Đông, coi Biển Đông là ao nhà của TQ, chiếm diện tích 80% Biển Đông! VN đặt tên là Lưỡi Bò. Uncle Sam và cử tri Mỹ chọn huyền ngọc Barack Obama, thật là một viễn kiến tuyệt vời, trao cho Obama mài quê cha là Kenya, với sứ mệnh trở lại Phi châu, một Phi châu đầy triển vọng đang lớn dậy, tạp chí Oil tôi đã dẫn, dành hẳn một số chủ đề Africa Today - A continent at a crossroads (Một lục địa ở ngã đường giao lưu), (no 19, p. 3-4). Một Phi châu mà TQ tràn ngập cách đây trên 20 năm, nay thì đang lúng túng to, Âu Mỹ "nhường cho phần nào hay phần ấy". Một Phi châu vốn chống Mỹ do thù ghét Do Thái thì nay một Phi châu tự hào về Barack Obama, một thần tượng của giới trẻ và trung niên Phi châu. Người Tàu Hoa Lục càng ngày càng trở nên xa lạ (distant from) ở giữa lòng xã hội Phi châu (với thịt heo và lạp xưởng là điều đáng kinh tởm đối với Hồi giáo Phi châu).

Cũng như thế, khi ngồi vào ghế Ngoại trưởng, bà Hillary Clinton chọn chàng tuổi trẻ Mỹ gốc Việt làm Tổng lãnh sự Mỹ tại Sàigòn! Và nay ông Ngoại John Kerry mới sử dụng lá bài tuyệt vời này, cử Tổng lãnh sự Lê Thành Ân, cầm đầu phái đoàn Hoa Kỳ ra Đà Nẵng thăm huyện đảo Hoàng Sa ngày 23-4-2013 vừa qua gồm các Tham vụ chính trị, văn hóa, thương mại và viên chức của tòa Đại sứ. Tại sao không cử Đại sứ hay Phó Đại sứ và Đệ Nhất tham vụ làm trưởng phái đoàn? Đây là một "đòn" chính trị tuyệt vời. Như tôi đã biết, ngoại giao nước nào cũng có riêng một ngành lãnh sự trách nhiệm về kiều dân, di trú, chiếu khán, giữ quyen lãnh sự tài phán và luật lệ lãnh sự, còn Đại sứ thuộc về ngoại giao và chính trị. Bộ Ngoại giao Mỹ muốn tách ngoại giao và chính trị cũng như Đại sứ Mỹ ra khỏi vấn đề Hoàng Sa vốn rất nhạy cảm trong quan hệ ngoại giao Hoa-Mỹ. Giám đốc Sở Nội vụ Đà Nẵng kiêm Chủ tịch UBND huyện đảo Hoàng Sa chào đón phái đoàn. Theo tin RFA, "Đoàn công tác Tổng lãnh sự bày tỏ lập trường ủng hộ giải pháp hòa bình đối với vấn đề tranh chấp Biển Đông, khẳng định sự cần thiết hợp tác để bảo đảm chủ quyền, bảo đảm hòa bình, an ninh an toàn và tự do hàng hải (...) trên cơ sở luật pháp quốc tế, đặc biệt là Công ước quốc tế về Luật biển 1982". Đây chỉ là ngôn ngữ ngoại giao vẫn thường được Hoa Kỳ nhắc đi nhắc lại. Nói tranh chấp là không đúng, TC đã đơn phương xâm lược.

Từ trong lịch sử, luật biển và công pháp quốc tế, Hoàng Sa - Trường Sa mặc nhiên và đương nhiên thuộc chủ quyền của nước VN. Cho đến nay chưa một nước nào trong cộng đồng thế giới, công nhận đường Lưỡi Bò Biển Đông là của Trung Cộng. Dù Hun Sen, Cao Miên là tên tay sai của Bắc Kinh vẫn im lặng. Đó là lý do tại sao Trung Cộng chỉ to mồm lấp liếm, không dám đối mặt với luật pháp quốc tế. Hầu hết giới sử gia và luật gia quốc tế, xác minh rằng, nếu đưa Hoàng Sa-Trường Sa ra trước tòa án quốc tế, TC sẽ thua to. Với Bắc Kinh, họ bất chấp! Lịch sử TQ họ còn viết lại cho phù hợp với bá quyền bánh trướng của Đại Hán Mao huống chi. Đấy, Phi đưa TQ ra trước tòa án quốc tế và LHQ đã chấp đơn, thụ lý, Bắc Kinh còn lờ hẳn đi, huống chi VN đang trong tay Bắc Kinh. Hẳn bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ biết rõ như thế. Và, Hoa Kỳ lên tiếng ủng

hộ Phi. Sự kiện Tổng lãnh sự Mỹ và phái đoàn Mỹ đến thăm UBND huyện đảo Hoàng Sa, đây là vấn đề ảo nhưng ảo mà là thật. Báo chí Đảng và nhà nước TC phản ứng điên cuồng, lên án Mỹ là kẻ "phá hoại hòa bình" ở Á Đông. Chính trị quốc tế bao giờ chẳng là ảo nhưng không hư ảo trong vấn đề Biển Đông và VN. Những đội tàu hải giám TC và cả hạm đội Nam Hải của TC rong ruổi đi lại đầy thách đố ở Biển Đông, Bắc Kinh đã cống hiến cho HP Obama một cơ may hiếm có, vượt qua mặt các giải Nobel Hòa Bình của Obama lại thuyết phục được lưỡng đảng và công luận Mỹ đem sức mạnh Liên quân Mỹ trở lại Á châu, TBD trong đó có ĐNA như thời 1954 với Tổ chức Liên phòng ĐNA SEATO để "be bờ đắp đập" ngăn làn sóng đỏ Bắc phương. Nay lại nhờ có TC công khai thách đố, Uncle Sam được cả Nhật, Nam Hàn và ĐNA đón chào công kênh làm Anh Hai bảo trợ, vượt cả vai trò "sponsor" mà là "protégé" của ĐNA, không cần tổ chức tốn hàng tỷ hàng tỷ dollars như SEATO năm 1954-55...

Năm 2012 một "siêu" SEATO đã thành hình, một SEATO ảo! Không cần Cam Ranh, không cần Chu Lai, không cần cả "đất địa giang sơn" MAC-V ở Tân Sơn Nhất như xưa. Tàu chiến võ trang hiện đại nhất USS Freedom đã neo ở cảng Tân Gia Ba, hoạt động trong vòng 6 tháng, luân phiên, không cần doanh trại, sĩ quan và thủy thủ đoàn vẫn ở dưới tàu. Trước đây, từ thời SEATO ra đời, Hoa Kỳ phải thuê căn cứ Subic Bay và phi trường quân sự Clark Field (gần Manila) nay khỏi phải chi một xu, hạm đội Mỹ, kể cả hàng không mẫu hạm tự do neo ở Subic Bay mà lại không cần thường trú. Quốc hội Mỹ mừng vô tả, không cần mở hầu bao!

Tuy nhiên Hoa Kỳ vẫn kẹt ở VN! Miên đã lọt vào tay TC nhưng không đáng kể, vẫn còn Thái Lan khống chế, kể cả Lào. Với tình báo Mỹ và Đài Loan, hơn ai hết, Ngũ giác đài và bộ NG Mỹ đã biết tỏ tường, kể cả ngỏ ngách nội bộ ĐCSVN hiện nay. Hoa Kỳ chưa thể tiến xa hơn. Nhân quyền tuy là vũ khí nhưng vậy vậy thôi! Đầu tư của Mỹ ở VN lớn lao như thế nhưng vẫn là ảo, qua các con số, đã giải ngân được bao nhiêu đâu! Trong khi Bắc Kinh bằng mọi giá phải nắm chặt VNCS. Hơn ai hết, tình báo Đài Loan biết rõ thực lực khủng khiếp của TC ở VN hiện nay. Thái thú bản xứ Nguyễn Phú Trọng chỉ là mặt nổi, còn nhiều đà cản khác rất mạnh của TC trong ĐCSVN từ cơ sở tỉnh và huyện, 90% các gói thầu vừa và nhỏ ở VN trong tay tư bản TC thì đủ hiểu sức mạnh của Bắc Kinh như thế nào! Âu - Mỹ thấm thía vào đâu! Mặc dầu sức mạnh mềm (soft power) của Mỹ càng ngày càng lan rộng và bám sâu ở VN từ xã hội đời thường đến trí thức tầng cao, nhưng vẫn chưa tạo thành lực tập trung để đẩy CSVN sụp đổ!

KHÔNG THOÁT KHỎI SỤP ĐỔ!

Qua 2 biến cố, tôi gọi là biến cố vì tác động rất mạnh trong lòng dân VN: 1. Mỹ bắn tiếng lực lượng Tuần duyên Hoa Kỳ sẽ giúp và che chở cho ngư dân VN đánh bắt cá xa bờ! Ngư dân Việt ham quá đi chứ lại! Điều bắn tiếng này không phải là hứa suông, rất dễ thực hiện. Quốc hội và công luận Mỹ chấp nhận ngay vì không đối đầu với TC, đã sẵn cảng TGB và Subic Bay, năm ba tàu tuần duyên từ Hawaii điều qua "du dương" ở vùng biển VN lợi nhiều mặt, nhân đạo mà! Các tàu hải giám TC, kể cả hạm đội Nam Hải có dám đương đầu với tàu tuần duyên của Mỹ không? Xin thưa không, ngoại trừ lên cơn điên. Đại tướng Lương Quang Liệt, khi là Bộ trưởng Bộ quốc phòng TC qua thăm Ngũ giác đài và các căn cứ quân sự Mỹ (2011), tướng Liệt đã công khai thừa nhận trong một cuộc họp báo ở Hoa Thịnh Đốn rằng "Khoa học kỹ thuật quân sự của Mỹ bỏ xa TQ", và "TQ phải cần 20 năm nữa mới đuổi kịp Hoa Kỳ". Không điên dại gì hải quân TC đối đầu thách đố với hạm đội Mỹ. Giả dụ, tàu chiến TC nổ súng trước, cầm chắc sẽ bị hạm đội Mỹ tiêu diệt ngay, kể cả tàu ngầm của TC. Bắc Kinh không dại gì tự phá vỡ huyền thoại hải dương Nam tiến của hải quân TC.

Hoa Kỳ tuần qua lật thêm một lá bài trên bàn họp của lãnh đạo VNCS: VN có thể mua máy bay tuần thám biển của Mỹ loại P-3C Orion do hãng Lockheed Martin chế tạo đang đậu đầy ở

sân bay Honolulu, Hawaii. VN dự trù sẽ mua 6 cái. Ngũ giác đài bắn tiếng VN có thể mua và Hoa Kỳ bán mà không vi phạm luật hiện hành cấm "bán vũ khí cho một nước CS hay thù địch loại sát thương". Máy bay Orion không võ trang bất cứ loại vũ khí sát thương nào. Máy bay thám thính Orion có thể khám phá tàu ngầm địch dưới lòng sâu đại dương. Trước đây, Liên Xô chế tạo loại thám thính tương đương IL-38, TU 142 nhưng sau khi Liên Xô sụp đổ, Nga không còn chế tạo loại này nữa, vả lại đã quá lạc hậu so với Orion. Do vậy, chỉ còn Orion của Lockheed. Với Orion, VN có thể kiểm soát trên mặt biển và dưới lòng sâu toàn hải phận VN. Không ham sao được! Nếu Bạch ốc OK, Orion có thể trao cho VN ngay. Ngon lành quá! Phe đầy tớ Bắc Kinh ở Hà Nội chủ trương "chiến lược" tách lãnh thổ đất liền ra khỏi biển đảo VN. Vẫn tiếp tục "16 chữ vàng, 4 tốt với TQ, còn "vấn đề Biển Đông" trao cho bộ ngoại giao xử lý, đã có sẵn bổn cũ sao lại, khi cần phát ngôn viên cứ đem ra đọc thuộc lòng bài bản tố cáo TQ "vi phạm chủ quyền biển VN". Thế thôi.

Đột nhiên, huyện Lý Sơn, trung tâm nghề cá từ Hoàng Sa đến Trường Sa, mở hội lễ cờ quạt kèn trống rước kiệu tưng bừng, bộ trưởng ngoại giao PBM bay ra đảo dự lễ hội khai mạc. Tuần sau chủ tịch nước Trương Tấn Sang lại bay qua đảo hứa hẹn tùm lum. Ít nhất đây là một dấu chỉ mới đối đầu với phe đầy tớ Bắc Kinh. Miến Điện hay Mayanmar đang là mẫu mực lý tưởng đang là mẫu mực lý tưởng đối với doanh gia và kinh tế gia VN. Tạp chí Foreign Affairs, số mới nhất, lần thứ 2, hoan hỷ giới thiệu nước Myanmar mới, đã dứt bỏ TC, chế độ quân phiệt đã cáo chung. Myanmar tưng bừng sống lại, phục hồi toàn diện nhờ phép lạ dân chủ, tự do (báo đã dẫn, The remarkable transformation continue, May-June 2013- với 11 trang báo hình ảnh rực rỡ). Miến Điện đổi mới và dân chủ hóa đang phổ biến rộng rãi ở VN. Điều mà Nguyễn Tấn Dũng hồ hởi về Mayanmar mới: đó là, đảng cầm quyền vẫn tồn tại, quốc hội Miến Điện vẫn trong tay đảng cầm quyền. CSVN không thoát khỏi sự sụp đổ, không còn bao xa! Nó phải sụp đổ, một qui luật tất yếu. Miến Điện là mô hình.

HÀ NHÂN VĂN (28/4/2013)

13.5.13

XÃ HỘI VN NGÀY NAY:

XÃ HỘI VN NGÀY NAY:




CHỈ TAY 5 NGÓN





Ông...........nhà  thơ hiện sống tại Hà Nội) tả cái xã hội - chính trị VN bằng thành ngữ dân gian:

Đảng ... chỉ tay,

Quốc hội ... giơ tay,

Mặt trận ... vỗ tay,

Chính phủ ... ra tay,

Doanh nghiệp nhà nước ... ngửa tay,

Công ty hữu hạn ... ngoặc tay,

Công an ... còng tay,

Tội phạm ... bắt tay,

Báo chí ... chùn tay,

Trí thức ... phẩy tay,

Đồng đội ... cụt tay,

Quan chức ... đầy tay,

Dân ... trắng tay.









12.5.13

Giải Pháp Khả Thi Giải Trừ Cộng Sản Việt Nam: Chọn Đường Sống thay thế cho Ngõ Cụt và Hẻm Chết



CHÍNH TRỊ-PHÁP LUẬT-QUÂN SỰ, TÀI LIỆU ĐẶC BIỆTGiải Pháp Khả Thi Giải Trừ Cộng Sản Việt Nam: Chọn Đường Sống thay thế cho Ngõ Cụt và Hẻm Chết

Lưu Nguyễn Đạt, TS, LS

May 11, 2013




                                            


“Giải pháp” là phương pháp hay cách thức giải quyết một vấn đề cụ thể, nan giải, cần thiết. Vấn đề cần giải quyết ở đây là bằng cách nào Giải Trừ Chế độ Cộng Sản Việt Nam?



“Giải pháp khả thi” không phải là phương cách giải quyết tức khắc, một cách dễ dàng, nhanh chóng, mà thực sự là chia tách những khó khăn của vấn đề, nhằm thoát khỏi bế tắc, và cuối cùng đưa ra một số giải đáp đúng, hợp lý, có thể thực hiện được, trong những hoàn cảnh thuận tiện, thích nghi nhất.



Vậy mục tiêu của giải pháp ở đây là nhằm giải trừ Cộng Sản Việt Nam [CSVN], chính là trong nước nơi sinh sống của gần 90 triệu người dân, phụ là tại hải ngoại, đối với các cơ sở cộng sản ngoại vi, nằm vùng. Thời gian giải trừ là ngay bây giờ và cho tới khi đạt tới kết quả “khả chấp”, khi đa số người dân vùng lên chống đối, tẩy chay, ly khai hay lật đổ chính quyền; khi cấp lãnh đạo và đoàn ngũ CSVN tan rã, mất tư cách và khả năng quản trị đất nước, mất uy tín quốc gia.



Muốn thực hiện “giải pháp giải trừ CSVN”, chúng ta hãy so sánh và nhận định về hai hoàn cảnh: 3 triệu người dân gốc Việt tỵ nạn cộng sản tại Hải ngoại và số còn lại của 90 triệu người dân Việt Nam, nạn nhân CSVN trong nước.



I. Trường Hợp của 3 Triệu Người Dân gốc Việt Tỵ Nạn Cộng Sản Đang Sinh Sống Trên Thế Giới Tự Do



1. Ý Thức Môi Trường Tai Ương, Triệt Hại của chế độ CSVN



Người Việt Nam yêu chuộng dân chủ tự do, thuộc thành phần Quốc gia, đã biết rõ mặt thật của chế độ cộng sản ngay những năm 1945, 1949, 1954, rồi 1975, khi người cộng sản lần lượt lộ rõ những thủ đoạn cướp nước, cướp quyền, đầy đoạ, giết chóc, hành hạ dân chúng mà họ từng nhờ vả, dụ dỗ, như hứa hẹn “cải cách ruộng đất” Miền Bắc; như giải phóng Miền Nam với chiêu bài “độc lập, tự do, hạnh phúc, ấm no” … tất cả đều là giả tạo, lừa lọc, triệt hại.



Người Việt Nam yêu chuộng dân chủ tự do đều biết rõ họ không thể sống còn trong môi trường tai ương quỷ tạo của chế độ cộng sản.



2. Giải Pháp Khả Thi: ly khai CSVN



Những người Việt Nam thoát khỏi Miền Bắc năm 1954, rồi thoát khỏi Miền Nam năm 1975 và những năm tiếp theo là những nạn nhân đầu tiên [còn sống sót] của chế độ CSVN. Những nạn nhân lịch sử này đã ra đi, dù phải từ bỏ của cải, gia tộc, làng xã, quê hương; dù phải hy sinh lấy tính mạng; dù phải đương đầu với mọi khó khăn, nguy khốn.



Đa số những người tỵ nạn cộng sản ra khỏi nước đều là những người có tâm chí vững vàng, có đủ can đảm hay tuyệt vọng khi đối đầu với mọi nguy nan để cứu thoát lấy mình, gia đình và bạn bè.



3. Mục Đích của những cuộc di cư vào Nam và những đợt tỵ nạn CS trên thế giới



Lý do chính khiến người Việt Nam quyết định bỏ chế độ CS di cư vào Nam [1954] và tỵ nạn [từ 1975] nơi đất khách quê người là mong muốn và hy vọng sau khi thoát khỏi địa ngục cộng sản họ sẽ có “giải pháp khả thi” sinh sống công bằng, tử tế tại những đất hứa nhân đạo và được tiếp đón trong cảnh an hoà, sung túc, tự do, hạnh phúc.



Nếu không có niềm tin sắt đá đó, người di cư 1954 và người tỵ nạn từ 1975 không đủ can đảm đương đầu với những cuộc phiêu lưu đổi đời như vậy. Sự hứa hẹn khả thi của một tương lai tốt đẹp, có thật tại Miền Nam [sau 1954] và tại các nước tự do [sau 1975] là “phần đối ước” của giải pháp ly khai CSVN vậy.



4. Phương Tiện & Giúp Đỡ



Cuộc di cư 1954 và di tản tỵ nạn cộng sản từ 1975 đã đạt được những kết quả khả quan, tốt đẹp, đôi khi phi thường, là nhờ vào những chương trình cứu trợ quốc tế và sự hảo tâm của các hiệp hội và cá nhân bảo lãnh, giữa người với người, đồng bào ruột thịt cũng có.



II. Trường Hợp của gần 90 triệu người dân Việt Nam, nạn nhân CSVN-Xã Hội Mafia trong nước



1. Ra Khỏi Tâm Cảnh Âm Thầm, Dè Dặt, Vô Cảm





Người dân trong nước ngày nay trước hết cần ý thức rõ cuộc sống của mình là tăm tối, thiệt thòi, hà tì, nguy nan, dù vài nơi trong “nhà tù lớn” này có những tụ tập phồn thịnh, vinh quang, phè phỡn giả tạo, sẵn sàng tự nổ, sẳn sàng phá sản.



Ý thức rõ nhu cầu giải thoát thì mới có “giải pháp khả thi” ra khỏi tai ách CSVN. Còn nếu tiếp tực vô cảm, thì phải đợi có cơ hội bị xúc động mạnh hơn, bị vi phạm táo bạo lây lan nhiều hơn.



Vấn đề vô cảm đôi khi chỉ vì người dân trong nước bị bịt mắt, bịt tai, bịt miệng. “Giải pháp khả thi” là giúp người dân trong nước được lĩnh hội thêm phương tiện nghe ngóng, truyền thông. Họ cần được báo động, đề cao cảnh giác, thức tỉnh bằng trí não, bằng tâm thức. Đoàn kết và khởi nghĩa, đi chung con đường tiến bộ đôi khi bắt đầu từ việc “ra khỏi” thái độ dè dặt, đố kỵ, cô lập của chính mình. Nếu không dang tay hay khởi bước tìm kiếm đường lối giải thoát, vượt khỏi nơi sa lầy, nguy biến thì làm sao níu nổi bàn tay tiếp cận đang chờ đợi kết nối vươn lên.



2. Ý thức Tai Ương Quốc Nạn Nội Xâm gốc Cộng Sản Mafia Quốc Tế





Người dân trong nước ngày nay cần ý thức rõ mọi phá hại về mặt xã hội, kinh tế, văn hoá, giáo dục, tư tưởng, sáng tạo; mọi hủy hoại nhân cách, môi sinh thiên nhiên, đất đai, sông ngòi bị ô nhiễm, hồ biển bị thất thủ, mất vào tay Hán tặc, đều phát xuất từ ý thức hệ cộng sản quốc tế, lâu nay tiếm quyền trong nước, qua những thủ đoạn mánh mung tham lam, bán nước hại dân của các lãnh tụ và guồng máy CSVN, cũ kỹ, lỗi thời.





Ý thức tệ đoan, tai ương phát xuất từ đâu mới thực sự có giải pháp khả thi gạt bỏ nguy tai đúng chỗ. Ngày hôm nay, chế độ CSVN đó dù tái chế, tái hô hấp tới mức nào vẫn chỉ đủ mánh mung tự lột xác và hiện hình dưới nhãn hiệu hổ lốn CSVN-Xã Hội Mafia-Tư Bản Đỏ hay Độc Đảng Đại gia Tướng Cướp Ngụy CS.



Nạn ngoại xâm bằng vũ lực, vơ vét tài sản, quyền lợi của Hán cộng chỉ là hiện tượng “lở loét ngoài da” hay những dị ứng ngoại lai lúc lộ liễu trắng trợn, lúc lập lờ thâm độc — mua chuộc, giao kèo mật – giữa các lực lượng cộng sản mafia quốc tế với nhau. Nên chống Tàu là phải dẹp CSVN-Xã Hội Mafia đỏ trước tiên, hay cùng một lúc, vì cần phải dẹp kẻ nội tuyến chủ mưu tội ác, kẻ đồng loã, tòng phạm cướp nước, bán nước. Chính CSVN-Xã Hội Mafia đỏ mới là quốc nạn nội xâm, nội thù, sẵn sàng và liên tục bán ranh, bán đảo cho Hán cộng và ngấm ngầm cho phép đồng chí vĩ đại này thong dong ảo tưởng “nô lệ hoá” cả ĐNÁ.



Do đó, mọi phong trào dâng cờ cộng sản xuống đường “chống Tàu, đòi đảo” tại Hà Nội, tại Sài gòn, hay những mưu toan “trung lập” trên mạng lưới quốc tế, với chủ trương “tạm quên nội thù” để đoàn kết “chống ngoại xâm trước đã” là hoàn toàn mắc mưu CSVN-Xã Hội Mafia đỏ khi thâm tâm họ chỉ muốn xì hơi an toàn, đem hoả mù đánh lạc hướng tranh đấu của người dân trong và ngoài nước, hầu còn cơ hội vơ vét cuối triều phong kiến đỏ.



Tái cơ cấu đảng phiệt, thay đổi hiến pháp giả tạo, xuống đường với màu cờ máu, lên mạng kiến nghị nhì nhằng là hoả mù lạc hướng, là lầm lẫn, nếu không muốn nói là giúp đỡ, hỗ trợ, toa nhập với âm mưu CSVN-Xã Hội Mafia đỏ kéo dài mạch sống giả mạo của băng đảng này vậy.



3. Giải Pháp Khả Thi: Kết lực Vết Dầu Loang Khai trừ CSVN-Xã Hội Mafia đỏ



Người dân nạn nhân CSVN-Xã Hội Mafia đỏ trong nước cần phải có can đảm, liều lĩnh chấp nhận “điều trị” mới ra khỏi cảnh nguy nan, chữa khỏi căn bệnh hiểm nghèo. Can đảm nằm ở đâu? Đó là cái quyết định có lúc tuyệt đỉnh, cái hy sinh vô thường, chẳng đặng đừng trong sự lựa chọn giữa cái chết và hy vọng sống, giữa cái đau đớn di căn và hành động đột nhập của mũi kim chích thuốc, của con dao mổ xẻ vứt bỏ ung nhọt xã hội đỏ nay di căn thành xã hội đen.



Ở các nhà thương hay nơi điều trị, nạn nhân thường nghe lời căn dạn, vừa thực tế, vừa vỗ về: “no pain, no gain” [Không đau, không cực, thì chả được gì]. Nạn nhân CSVN-Xã Hội Mafia đỏ chắc cũng phải thu nhận phương ngôn đó như một giao ước sòng phẳng, khả thi, khả chấp: giải trừ cộng-sản-mafia-hại-dân-bán-nước mới có dân-chủ-tự-do-nhân-bản.



Khả thi vì nạn nhân của chế độ CSVN-Xã Hội Mafia đỏ ngày nay cần tạm coi mình là những “người tỵ nạn” tại chỗ, những “thuyền nhân” trên bộ, những người bỏ phiếu bằng đấu tranh, nên cũng phải hy sinh, cực khổ, liều mạng…ngay trên quê hương xứ sở mình để tự giải thoát, như những người tỵ nạn cộng sản trước đây của những năm 1954, 1975. Chỉ cần vài triệu người Việt Nam trong nước, nếu dõng dạc đứng sang một bên của lẽ phải, của sự thật, con thuyền xã hội chủ nghĩa nát mọt sẽ chênh vênh ngả theo người biểu tình chân chính, khi những người dân đó biết “nổi dậy” với tư cách công dân Việt Nam, với luận điệu và yêu sách của dân, đòi hỏi quyền tự quyết của Dân Tộc Việt. Một cách rõ ràng và quyết liệt.



Vậy cái cao đẹp khả chấp là ở chỗ người dân trong nước biết tụ tập, có đủ can đảm dù tuyệt vọng, có đủ chí khí quyết liệt đứng lên thách đố nguy nan, bão tố, để thu thập lại quyền sống, những quyền nhân bản, nhân sinh bất khả tước đoạt của mình, của người hàng xóm, của đồng bào mình lâu nay bị lũ đầu nậu CSVN-Xã Hội Mafia đỏ cầm cố, tước đoạt, tịch thu trái phép, trái với công bằng, đạo đức con người.



4. Mục Đích và Đối Ước của Công Cuộc Khởi Nghĩa Khai Trừ CSVN-Xã Hội Mafia: Sinh Khí Mới và Phúc Lợi Nhân Bản



Lý do chính khiến người dân trong nước dám liều lĩnh, có đủ can đảm khởi nghĩa khai trừ chế độ cộng sản-xã hội Mafia đỏ là vì:



họ mong muốn và hy vọng sau khi lật đổ chế độ cộng sản-xã hội Mafia đỏ, họ sẽ khơi mào một sinh khí mới, một cuộc sống công bằng, tử tế, an hoà, sung túc, tự do, hạnh phúc ngay tại Việt Nam, mà không cần bỏ xứ ra đi như những người Tỵ Nạn CS năm xưa.

họ may mắn hơn người Tỵ Nạn CS trước kia vì sẽ không bị thiệt mạng cả trăm ngàn người bởi bão tố, hải tặc, đói khát, thất lạc. Họ sẽ không nhục nhã chờ đợi trước khi hội nhập đất hứa.

họ sẽ tạo dựng một tương lai tốt đẹp, có thật ngay trong nước mình, mà không cần xuất khẩu lao động; không cần bán thân cho ngoại bang; không cần lép vế, sợ hãi ngoại tặc.

Cuộc nổi dậy như vậy chỉ là Kết Lực Vết Dầu Loang giữa những người dân hội đủ ý thức cần thiết về quyền sống, quyền sở hữu những gì của minh, thuộc về mình, từ vật chất tới tinh thần, từ tự do tới an sinh, từ phẩm giá tới khả năng xây dựng, sáng tạo chân chính. Giản dị như vậy. Nhưng phải hành động, phải dấn thân vào thực trạng, chấp nhận khó khăn, gian nan lúc ban đầu, lúc thi hành. “Vạn sự khởi đầu nan”, thế thôi. Nhưng đôi khi cái khó lại tạo ra cái khôn chăng? Vì chí khí vượt thoát bế tắc, nguy nan có liên đới mật thiết với nghị lực hoá giải thân phận tối tăm, thiệt thòi của chính mình, của dân tộc mình.





Vậy đối ước khả thi — cái phần thưởng tinh thần, chính trị, văn hoá, tình cảm cao quý — của cuộc khởi nghĩa khai trừ CSVN-Xã Hội Mafia đỏ là lập tức tạo dựng lại trên quê hương xứ sở, trong làng ấp, gia đình, cá nhân, tất cả những gì cao đẹp, quý báu nhất của dân tộc mà chế độ cộng sản đã tước đoạt gần 70 năm nay.



Người dân Việt Nam ngày hôm nay nên hãnh diện với niềm tin tưởng đó. Đừng để người “ngụy- cộng” và những kẻ phản bội dân tước đoạt hơi thở linh thiêng đó. Hãy trân trọng đảm nhận sứ mạng do chính mình giao phó vì quyền lợi của mình, của người thân kẻ thuộc, của đồng bào ruột thịt. Khi người dân Việt đạt được kiến thức nhân sinh “miễn nhiễm vi trùng Cộng Sản Mafia”.



Và đương nhiên, khi người dân đã thu hồi lại quyền dân tộc tự quyết, quyền tự do và tư hữu, đã chọn lựa xong một chính thể dân chủ hợp hiến, hợp pháp, hợp lòng dân, thì đa số 90 triệu người Việt, trong và ngoài nước, sẽ ủng hộ, tiếp lực chính thể đó trong sứ mạng khai trừ ngoại xâm và mọi quốc nạn trực diện.



5. Phương Tiện Kết Sinh & Trợ Giúp



Trước phong trào dân tộc Việt Nam nổi dậy đòi quyền tự quyết và quyền sống đích thực, các lực lượng quốc tế bảo vệ nhân quyền, các quốc gia theo chính nghĩa dân chủ tự do ắt phải hậu thuẫn, giúp đỡ, can thiệp theo lẽ phải và công lý nhân bản mà công pháp toàn cầu đã quy định, đôn đốc.



Còn chúng ta, người Việt Tự do gốc tỵ nạn cộng sản đã từng được người xứ lạ cứu vớt, bảo lãnh, che chở, bây giờ sẽ làm gi trước dự tính giải thoát của đồng bào chúng ta trong nước vậy? Chúng ta có nỡ bỏ bê họ, khuyên răn họ nên yên thân, yên phận trong cảnh nô lệ vài ba thế hệ nữa? Để con cháu họ sống thiệt thòi, tăm tối vài chục năm nữa? Liệu chúng ta có thể ngoảnh mặt nhìn chỗ khác khi đồng bào chúng ta bị Nhà Nước Công An tiếp tục sách nhiễu, đánh đập, bỏ tù?



Vậy ngày hôm nay chúng ta phải làm gì đối với đồng bào của chúng ta đang lâm nạn, đang mong đợi sự bảo lãnh tinh thần, sự hứa hẹn chăm sóc, vỗ về, trợ lực kết sinh?



Chúng ta, người tỵ nạn may mắn năm xưa phải làm gì để giúp đỡ dân tộc còn bị quản thúc, thiều thốn, thiệt hại, tù tội đó?



Về mặt căn bản, chúng ta cần:



gìn giữ thân phận, tư cách và mục tiêu của người Việt Tự do gốc tỵ nạn cộng sản để làm gương mẫu, niềm tin vững chắc cho đồng bào chúng ta trong nước đang muốn thoát khỏi ách nô lệ, tai ương CSVN-Xã Hội Mafia;

minh thị, rõng rạc cho họ thấy nếu tay trái họ bỏ được nạn CS-Xã Hội Mafia thì tay phải họ sẽ nhận được một kiếp sống toàn vẹn, sứng đáng hơn, chứ không thể chỉ luộm thuộm tiếp nối một cõi sống tùy tiện, vô định, chẳng hơn gì.

Về mặt thực tiễn, chúng ta cần:



tìm cách cổ võ, tiếp sức kết lực với người tranh đấu cho dân chủ tự do và nhân quyền trong nước;

nỗ lực trợ giúp kiến thức, kỹ thuật, phương tiện cần thiết trong phong trào khởi nghĩa phục hồi dân chủ, tự do nhân bản trong nước;

kịp thời can thiệp với các tổ chức bảo trọng nhân quyền, đánh thức lương tri và lương tâm thế giới về những tệ đoan chính trị, xã hội đang hoành hành trong nước;

tránh tiếp tay kéo dài mạch sống của con bệnh CSVN-Xã Hội Mafia, hoặc vô ý góp phần hô hấp kinh tài, hoặc nhẹ dạ phản trác, tha hoá, chia rẽ, tự phá tại hải ngoại, dưới ảnh hưởng thủ đoạn nội tuyến như Nghị Quyết 36 của CSVN nhằm phá hoại căn cước và môi sinh người Việt Tỵ Nạn CS trên thế giới tự do.

Về đường lâu dài: đóng góp khai triển dân trí trong nước



Chúng ta nên hiệp lực thực hiện sớm những “Học Đường Mở”, phổ thông với những kho tài liệu chính xác, những thư viện thân thiện trên liên mạng tại hải ngoại và trong nước để cung cấp tin tức, kiến thức, nhằm trau dồi giáo dục quần chúng, mà chương trình học vụ gồm những câu hỏi, chất vấn; những nỗi thắc mắc, ao ước từ lòng dân.



Đặc biệt là những “Học Đường Mở” này toàn bộ bất vụ lợi, ai cũng ghi danh được, ai cũng là trò, ai cũng là thầy, miễn tự tin, tự trọng, luôn luôn hiếu học, sẵn sàng tìm hiểu sự thật và các giá trị cởi mở, tân tiến. “Học Đường Mở” này không cấp bằng giả và cũng không thu nhận những đối tượng phá hoại, giả dối, thông thái nửa mùa, bất xứng, bất luân.



Vậy giải pháp khả thi giải trừ ách Cộng Sản Việt Nam là



[a] Ra Khỏi Tâm Cảnh Âm Thầm, Dè Dặt, Vô Cảm;



[b] Ý thức Quốc nạn CSVN Nội Xâm thuộc gốc cộng sản quốc tế; nay di căn thành Xã Hội Mafia đỏ;



[c] tìm mọi cách thoát khỏi bế tắc, Quốc nạn CSVN-Xã Hội Mafia bằng Kết lực Vết Dầu Loang



[d] và cuối cùng duy trì khả năng vượt Cộng, bằng Kiến thức Nhân sinh quân bình, tự giác khi miễn nhiễm vi trùng cộng sản và tội ác mafia đỏ.





ý thức hệ Cộng Sản-Xã Hội Mafia





Thay Lời Tạm Kết



Cốt lõi của Nghị Lực Giải Trừ Ách Cộng Sản-Xã Hội Mafia là Chọn Đường Sống thay thế cho Ngõ Cụt và Hẻm Chết.



Đó là giải pháp và trách nhiệm của từng người dân trong không gian Việt với tư duy khai phát, mở rộng của toàn dân tộc Việt Nam thực hiện Sự Thật và Lẽ Sống Công Bằng, Toàn Diện. Giải pháp khả thi đó là do chính mình quyết định tìm kiếm, mổ xẻ, chọn lựa, thi hành và đôn đốc. Giải pháp đó không thể là một phương kế ù lì bất động, vô tâm ”bất chiến tự nhiên thành”, hay cố ý trốn tránh trách nhiệm.



Trân trọng,



TS-LS Lưu Nguyễn Đạt