14.9.14

Hà nội hốt hoảng vì cuốn sách Đèn Cù




Đèn Cù gây sốc, Hà Nội tung tư liệu để chạy chữa
Hà Nội hốt hoảng tung nhiều tư liệu để tuyên truyền, trước sức nặng bóc trần mặt thật Hồ Chí Minh qua sách Đèn Cù của tác giả Trần Đĩnh
Liên tục trong 2 ngày, nhà nước CSVN đã dùng nhiều hình thức tuyên truyền như báo chí, truyền hình để đưa tin về sự kiện cải cách ruộng đất năm 1954 ở miền Bắc Việt Nam như một cách nguỵ biện, tô vẽ lại một sự thật đẫm máu đã xảy ra ở miền Bắc sau 1954.
Vấn đề hết sức nhạy cảm này của chế độ CSVN đột nhiên được nói đến nhiều, khiến ai nấy đều tin rằng sau khi cuốn sách Đèn Cù của tác giả Trần Đĩnh xuất hiện, bóc trần bộ mặt gian ác của Hồ Chí Minh, Đảng CSVN thật sự rúng động vì tượng đài quan trọng của họ đã hoàn toàn sụp đổ, cũng như bộ mặt của chế độ đã lộ ra phần đen tối nhất.
Cuốn sách có tựa đề Đèn Cù của tác giả Trần Đĩnh thật sự là quả bom nổ đối với chế độ CSVN, vì tư liệu của cuốn sách, là sự thật tiết lộ của một người bước ra từ Đảng Cộng Sản VN. Đặc biệt sách cũng cho thấy Hồ Chí Minh hay Đảnh CSVN hoàn toàn lệ thuộc Trung Quốc từ rất lâu, kể cả việc tuân lệnh Bắc Kinh để hành quyết vô cớ hàng ngàn đồng bào của mình.
Theo giới thiệu, tác giả Đèn Cù là nhà báo kỳ cựu của tờ Sự Thật từ những ngày đầu tiên khi báo này thành lập do Trường Chinh làm Tổng biên tập. Ông sinh năm 1930 và tham gia Việt Minh vào năm 1946 tức lúc mới 16 tuổi, Trần Đĩnh thuộc lớp đảng viên tiên phong gia nhập đảng cộng sản Việt Nam từ năm 1948. Ông cũng chính là người chấp bút tiểu sử của Chủ tịch Hồ Chí Minh, chấp bút những tự truyện của nhiều nhân vật như Phạm Hùng, Lê Văn Lương, Bùi Lâm, Nguyễn Đức Thuận.
Sách Đèn Cù được in và phát hành rộng rãi trên toàn thế giới từ cộng đồng người Việt hải ngoại tại Mỹ và tràn về Việt Nam bằng bản in cũng như PDF . Ngay sau khi Đèn Cù xuất hiện, có thể nhìn thấy tác động của sách, qua việc CSVN tổ chức liên tục bài vở, hình ảnh để ca ngợi cuộc cải cách miền Bắc như là một công lao đem lại ấm no hạnh phúc cho người dân, đánh đuổi được chế độ chủ nô.
Trong thời gian gần đây, rất nhiều tư liệu gọi là ‘giải thiêng’, được tung ra ở nhiều nguồn, ngày càng cho thấy rõ Hồ Chí Minh là một người lãnh đạo gian hùng và ác độc. Sự thật này đang làm cho nhiều người trẻ trong nước tỉnh giấc và nhận ra rằng lâu nay họ đã bị lừa dối và buộc phải tôn thờ một nhân vật máu lạnh.
Đảng CSVN thật sự rúng động. Tin cho biết, nhiều chương trình giáo dục và học tập theo gương họ Hồ sẽ sớm được tung ra trong nước, nhằm tuyên truyền cải chính, lấp liếm cho những gì bị tiết lộ. Thậm chí ngày Tết Trung Thu mới vừa rồi ở Việt Nam, Hà Nội đã bỏ nhiều tiền của để tổ chức ở nhiều nơi một lễ Trung Thu rước hình họ Hồ để tuyên truyền.
Việc phơi bày mặt thật của Hồ Chí Minh cũng đồng nghĩa lật đổ mọi giá trị của Đảng CSVN. Hiện nay trong nước, người ta đang chuyền tay nhau quyển sách này và nói với nhau về ngày tàn của chế độ.
Để tham khảo, quý độc giả có thể download bản PDF theo đường dẫn ở đây
https://docs.google.com/file/d/0B7GMKLKS_qhPa2Z0aXJpZjlZY3c/edit

Quyền lực phát ra từ nòng súng!



Quyền lực phát ra từ nòng súng!

Vạch trần bộ mặt thật của đảng cộng sản Việt Nam

1Âu Dương Thệ

Tại sao “Cách mạng Mùa thu” biến thành chế độ toàn trị coi dân như nô lệ?

Sau 69 năm cướp chính quyền: Đặt lại vấn đề ĐCS còn tư cách cầm quyền hay không?

Thời con người còn ăn lông ở lỗ, trong những cuộc tranh giành phẩm vật thường kẻ nào có sức mạnh sẽ thắng, có thể giết chết đối thủ và chiếm toàn bộ chiến lợi phẩm. Đây là thời kì con người sống theo “luật rừng xanh“, theo kiểu “ chúa tể sơn lâm“, cá lớn nuốt cá bé, kẻ mạnh giết kẻ yếu!
 
Tới thời phong kiến sự thay đổi quyền lực trong xã hội cũng dựa trên bạo lực, kẻ nổi loạn thường nêu cao chính nghĩa trừ vua bạo ngược, khi đánh thắng được vua chúa đương thời thì tự mình xưng làm vua chúa mới. Người chiến thắng tự coi các tài sản thiên nhiên và sinh mạng của người dân trong nước là tài sản riêng của giòng họ mình, không những thế còn tự giành quyền cha truyền con nối hết đời nọ đến đời kia. Khi người chiến thắng trở thành vua, lập quân đội riêng chỉ biết trung thành với mình, định ra các luật lệ để bảo vệ ngai vàng, sẵn sàng dùng các lực lượng quân sự đàn áp những cuộc chống đối của nhân dân, coi dân như sở hữu riêng, thậm chí như cỏ dại!
 
 Sau nhiều thế kỉ cầm quyền nhiều chế độ phong kiến từ Đông sang Tây đã xây dựng các ngai vàng trên dối trá, bạo ngược và tội ác. Nhân loại đã chứng kiến và cũng là nạn nhân của sự tham lam quyền lực và tha hóa đạo đức của các vua chúa và bọn quí tộc. Các nhà khoa học xã hội đã rút ra được bài học lịch sử: Quyền lực, tiền bạc, danh vọng có sức quyến rũ rất lớn và dễ đưa con người tới sa ngã. Nếu không có sức cản lại thì nó như ngựa không cương, xe không thắng rất nguy hiểm. Các nhà khoa học còn nhận thấy, nơi nào quyền lực càng lớn thì chính nơi đó dễ dẫn tới sự lạm dụng quyền lực càng cao, càng thô bạo.
 
 Ở nhiều nước trên thế giới người dân đã nhận rõ được là, nhiều bạo chúa thường quên đi những lời hứa ban đầu và tự dựng lên các thuyết phản khoa học để biện minh cho những hành động tàn nhẫn và các tội ác của họ để tiếp tục giữ quyền lực, trở thành bạo chúa cực kì tàn bạo và vô đạo đức, chỉ lo đàn áp và bòn rút tài sản của đất nước và nhân dân, coi sinh mạng của dân như thú vật. Vì vậy đã nổ ra những cuộc Cách mạng Dân quyền và Nhân quyền 1789 ở Pháp và 1776 ở Mĩ đòi các quyền tự do nguyên thủy của con người là tự do tư tưởng, tự do tôn giáo, tự do ngôn luận, tự do đi lại…Đồng thời để ngăn cản sự lạm dụng quyền lực của giới cầm quyền, các cuộc cách mạng này còn thiết lập một hệ thống cơ chế tổ chức xã hội mới với ba cơ cấu quyền lực căn bản trong một quốc gia là lập pháp, hành pháp và tư pháp trên cơ sở độc lập và bình đẳng. Để thực hiện các quyền này các cuộc cách mạng trên còn thừa nhận là, người dân có các quyền tự do hội họp, tự do bầu cử, ứng cử; đồng thời còn xác nhận quyền bình đẳng của công dân trước pháp luật. Từ đó chấm dứt chế độ vua chúa độc tôn, cha truyền con nối và thực hiện chế độ Dân chủ Cộng hòa, trong đó người dân làm chủ vận mệnh của đất nước và quyền lực được hạn định rõ ràng cả thời gian lẫn mức độ!
 
Các cuộc Cách mạng Dân quyền và Nhân quyền chấm dứt chế độ nhân trị -luật lệ được giải thích tùy tiện theo ý riêng của kẻ nắm quyền- và thay bằng chế độ pháp trị. Tức là chấm dứt quyền sinh sát nhân dân tùy lòng tốt, tùy sự vui buồn, hỉ nộ của kẻ có quyền lực và thay bằng cơ chế luật pháp từ giai đoạn soạn thảo, tới ban bố và thi hành phải do những cơ quan và nhân sự độc lập, có khả năng chuyên môn, có tinh thần trách nhiệm và lương tâm nghề nghiệp đảm trách.
 
Trải qua hơn hai thế kỉ các xã hội Pháp, Mĩ, Bắc Âu và Tây Âu đã không ngừng hoàn thiện chế độ Dân chủ đa nguyên và cơ chế kinh tế thị trường tiến bộ theo hướng mở rộng các quyền tự do dân chủ, thượng tôn pháp luật….Nhờ vậy nhân dân các nước này thực sự đang được hưởng các quyền dân chủ tự do căn bản, đồng thời sống trong phồn vinh. Các quốc gia này đang trở thành gương sáng về chế độ Dân chủ đa nguyên và Kinh tế thị trường trên hoàn cầu. Nhiều nước Á châu, Úc và Nam Mĩ cũng đã tự tin và sáng tạo thực hiện chế độ Dân chủ đa nguyên và Kinh tế thị trường đang trở thành các nước dân chủ có nền công nghiệp tiên tiến…Như thế Dân chủ đa nguyên và Kinh tế thị trường tiến bộ không còn là đặc thù của một xã hội nào, trái lại trở thành tài sản trí tuệ và sáng tạo chung của nhân loại.
Từ khi loài người kết hợp thành những xã hội và quốc gia, nhiều học thuyết chính trị và kinh tế đã được khai sinh và đã được thử thách từ thời Thượng cổ với luật rừng xanh, thời Trung cổ với chế độ phong kiến, tới các chế độ độc tài cá nhân, quân phiệt và đảng trị như các đảng Cộng sản và chế độ Dân chủ Đa nguyên. Nhưng đa số nhà khoa học xã hội đã nhận định, chế độ Dân chủ đa nguyên là chế độ gần với con người văn minh nhất. Tuy nó chưa phải là chế độ tuyệt hảo, nhưng nhờ có những cơ chế tổ chức quyền lực được phân chia độc lập và bình đẳng giữa ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, nên những lạm dụng quyền lực đã bị giới hạn triệt để. Không những thế, trong Dân chủ đa nguyên các quyền tự do dân chủ căn bản về dân quyền và nhân quyền của người dân được tôn trọng thực sự. Trong Dân chủ đa nguyên các chính đảng –ngay cả đảng cầm quyền và từ tổng thống tới thủ tướng- không có quyền đứng trên tất cả, nó bị theo dõi và kiểm soát nghiêm ngặt và thường quyên qua nhiều hệ thống công quyền và dân quyền. Tóm lại, Dân chủ đa nguyên rất phù hợp với xã hội loài người, biết triển khai và phát triển mặt mạnh của con người, đồng thời biết những phương pháp thích hợp và hữu hiệu để ngăn chặn những tệ trạng của quyền lực…Vì thế nơi nào các định chế Dân chủ đa nguyên được thực thi triệt để thì nơi đó người dân có nhân phẩm cao, đất nước văn minh!
***
Vào tiền bán Thế kỉ 20 cả dân tộc VN đang sôi sục đánh đuổi thực dân Pháp đang đè đầu sĩ phu, bóc lột nhân dân và bòn rút tài nguyên VN. Mục tiêu chung của nhân dân ta khi ấy là giành độc lập và xây dựng một xã hội Dân chủ Cộng hòa theo chiều hướng chung của nhiều xã hội văn minh. Nhiều tổ chức chính trị đã tham gia, trong đó có nhóm những người CS do Hồ Chí Minh cầm đầu và được sự đỡ đầu của Đệ tam Quốc tế Cộng sản dưới sự lãnh đạo của CS Liên xô đứng đầu làStalin. Nhờ biết tổ chức và có sách lược phù hợp, những người CSVN đầu tiên đã tránh không đả động tới chủ nghĩa CS mà chỉ tuyên bố cùng với toàn dân và các lực lượng dân tộc đoàn kết đánh đuổi thực dân giành độc lập, tự do và thiết lập chế độ Dân chủ Cộng hòa. Đây là ý nguyện của toàn dân, được nhiều giới tin theo, nên nhóm ông Hồ đã thành công trong cuộc “Cách mạng mùa Thu“ cách đây đúng 69 năm. Chính ngay trong đoạn mở đầu “Tuyên ngôn độc lập“ ngày 2.9.1945 Hồ Chí Minh đã xác nhận mục tiêu cuộc Cách mạng mùa Thu với nội dung như Cách mạng Dân quyền và Ngân quyền ở Mĩ và Pháp gần hai thế kỉ trước. Ông Hồ đã trích dẫn Tuyên ngôn Độc lập 1776 của Mĩ:
 
“Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc.“[1]
 
Và ông cũng đề cao Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp: “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi!“[2] Chính ông Hồ đã đồng ý và còn nhấn mạnh thêm, đó là những chân lí: “Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được!“[3]
 
Như vậy không ai có thể nói khác là, vào thời điểm đó Hồ Chí Minh đã thừa nhận mục tiêu Cách mạng mùa Thu của VN cũng giống như mục tiêu Cách mạng Dân chủ, Dân quyền và Nhân quyền của Pháp và Mĩ. Cho nên khi thành lập chính phủ đầu tiên, ông Hồ đã dùng tên chính phủ Việt nam Dân chủ Cộng hòa.
 
Nhưng từ sau hai chiến thắng chống thực dân Pháp và chống Mĩ (riêng cuộc chiến chống Hoa kì phải nghiêm túc đặt lại: Đây là cuộc nội chiến Bắc-Nam và chiến tranh ý thức hệ, chứ không phải “chiến tranh giải phóng“) những người chiến thắng (ĐCS) đã nghĩ rằng, đây là công lao và thành công của riêng mình. Cho nên sau khi tiếp thu miền Bắc (1954) và thống nhất đất nước (1975) các chiến lợi phẩm nắm được coi như sở hữu riêng của họ: Chính quyền là độc quyền của ĐCS, quân đội và công an cũng là phương tiện độc quyền của họ, ruộng đất và tài nguyên của đất nước cũng đặt dưới quyền quản trị độc quyền của đảng (với tên mới “sở hữu của nhà nước“, nhưng nhà nước là của riêng đảng.)
Như thế không ai có thể phủ nhận được là, đây chính là quan điểm của thời phong kiến, người nổi dậy đánh thắng một triều đình rồi lên ngôi vua nắm quyền và tự ý coi mọi thứ trong xã hội là tài sản riêng của mình. Quyền lực phát ra từ nòng súng! Một câu nói từ cửa miệng Mao Trạch Đông, người sáng lập chế độ toàn trị tàn bạo ở Trung quốc, đồng thời cũng là người đỡ đầu cho chế độ toàn trị ở VN, chính nó mở ra những cơ hội cho Bắc kinh can thiệp thô bạo vào chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ VN suốt mấy thập kỉ qua, với các đỉnh cao là Hội nghị bí mật Thành đô (1990) và giàn khoan HD 981 (2014) .
 
Tư duy và tâm lí về quyền lực đi ra từ sức mạnh của bạo lực bắt nguồn từ thời kì còn sơ khai của con người trong thời ăn lông ở lỗ; giữa một số người tranh giành nhau một lợi phẩm, kẻ nào giành được nó trở thành tài sản riêng. Một số người tranh giành một mảnh đất, ai đánh bại được những người khác thì sẽ giành được mảnh đất và coi đó là tài sản riêng, tự do sử dụng bao nhiêu lâu cũng được từ cha con cháu chắt…! Đây là quan điểm và tâm lí theo “luật rừng xanh“, “chúa tể sơn lâm“, kẻ mạnh ăn hiếp người yếu như đã trình bày ở trên. Nó đã được triển khai trên một qui mô rộng lớn hơn và tàn bạo hơn dưới thời phong kiến
 
Nhưng trong thời đại tiến bộ hiện nay thì quan điểm và tâm lí này của những người cầm quyền chế độ toàn trị ở VN chứa đựng những sai lầm căn bản so với tiến trình phát triển chung của nhân loại: 1. Sai lầm vì nhầm lẫn giữa việc của một cá nhân với việc chung của toàn dân tộc. Đất nước không phải là tải sản riêng, nhân dân không phải là tôi tớ hay nô lệ của người chiến thắng. 2. Sai lầm về thời đại: Kéo dài quan điểm bạo lực đẻ ra quyền lực của con người thời còn ăn lông ở lỗ và thời phong biến vào thời đại mới của thế giới văn minh và khoa học. Trong thời đại văn minh và khoa học hiện nay, chính quyền (nhà nước) không phải là sở hữu riêng của một cá nhân hay một chính đảng, nó thuộc sở hữu chung của toàn dân. 3. Họ quên và bội ước với nhân dân nên đã chống lại những lời thề trước Ba đình của người sáng lập đảng trong Tuyên ngôn Độc lập 2-9-1945, như đã trình bầy ở phần trên.
 
Suốt 69 năm qua những người CS tự nhận là chống phong kiến, nhưng chính họ lại khai triển với mức độ tinh vi và bạo ngược hơn về cách cầm quyền độc đoán của chế độ phong kiến của các vua chúa, coi nhân dân như nô lệ, đất nước thuộc tài sản riêng của đảng độc quyền. Thời con người còn ăn lông ở lỗ, kẻ có sức mạnh hơn người đã dùng sức mạnh của mình để đè nén người khác. Thời phong kiến kẻ thắng được làm vua. Thời XHCN cũng bắt chước thời phong kiến, coi nhà nước là của riêng của đảng (vua tập thể), quân đội, công an là phương tiện độc quyền, tự do sinh sát dân. Đảng dùng bộ máy công an mật vụ đàn áp người khác chính kiến, dùng cai văn nghệ -người canh gác tư tưởng- để bịt miệng dân và bẻ cong ngòi bút của người cầm bút. Như vậy, những người lãnh đạo XHCN đã học mót cách cai trị bạo ngược của thời kì Trung cổ man rợ. Vì thế họ không phải những nhà lãnh đạo văn minh mà là những người cầm đầu một đảng ác ôn phản động, hống hách lợi dụng quyền lực theo tiêu chí: Quyền lực phát ra từ nòng súng !
 
***
Dưới chế độ toàn trị công an thả cửa mớm cung, bắt nạn nhân phải nhận tội và người đứng đầu chế độ toàn trị tự do mớm lời và bịa đặt bảo đó là nhân dân muốn như vậy, biến trắng thành đen, giả thành thực. Để biện minh cho việc cầm quyền độc đoán và vô hạn từ suốt 69 năm qua, những người cầm đầu chế độ toàn trị từ thế hệ này sang thế hệ sang đã không ngừng dùng lí luận độc đoán của kẻ chiến thắng bằng bạo lực ép mọi người phải theo, bất chấp những sự thực khách quan đã diễn ra trên thế giới. Vì có bạo lực trong tay nên những người cầm đầu chế độ toàn trị đã tự do mớm lời và quyết định thay cho nhân dân. Chính Nguyễn Phú Trọng đã tự dựng đứng lên với tuyên bố “Đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta“![4] và “chỉ có chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản mới có thể giải quyết triệt để vấn đề độc lập cho dân tộc, mới có thể đem lại cuộc sống tự do, ấm no và hạnh phúc thực sự cho tất cả mọi người, cho các dân tộc.” [5]
 
Cũng vẫn giọng điệu của kẻ cầm súng trong tay, ông Trọng còn nói cao ngạo và bất chấp sự thực: “Từ thực tế thì thấy là chúng tôi thực hiện một đảng vẫn là hiệu quả nhất “ và còn hống hách tước quyền tự quyết của nhân dân VN: “Chúng tôi nói là ở Việt Nam chưa thấy sự cần thiết khách quan cần phải có chế độ đa đảng“.[6] Những người tiền nhiệm của ông Trọng cũng nói theo kẻ cầm dao trong tay. Ngay trong trong Báo cáo chính trị của Đại hội 7 (1991) dưới thời Đỗ Mười – một người cực kì bảo thủ và đã từng gây ra nhiều sai lầm nghiêm trọng – cũng đã khẳng định rất độc đoán:
 
“Trong điều kiện nước ta hiện nay không có sự cần thiết khách quan để lập nên cơ chế chính trị đa nguyên, đa đảng đối lập. Thừa nhận đa đảng đối lập có nghĩa là tạo điều kiện cho sự ngóc đầu dậy ngay tức khắc và một cách hợp pháp các lực lượng phản động, phục thù trong nước và từ nước ngoài trở về hoạt động chống tổ quốc, chống nhân dân, chống chế độ.”[7]
Nhưng về những lời tuyên bố chống lại Dân chủ đa nguyên như vậy, Đỗ Mười và Nguyễn Phú Trọng phải trả lời thẳng thắn trước nhân dân: Họ đang chống lại những lời thề của Hồ Chí Minh trong Tuyên ngôn Độc lâp 2.9.1945 với các nội dung rất rõ như đã trình bày phần đầu? Hay họ đang thừa nhận là, người sáng lập chế độ đã đánh lừa nhân dân? Và như thế, Tuyên ngôn Độc lập ngày 2.9.1945 của Hồ Chí Minh chỉ là treo đầu dê bán thịt chó?
 
Tuy Nguyễn Phú Trọng vừa vẽ ra một bức tranh thiên đàng cực lạc của xã hội XHCN ở VN như vừa trình bày ở trên, nhưng hình ảnh thực sự của xã hội ấy sau 69 thực hiện như thế nào? Cũng chính Nguyễn Phú Trọng phải xác nhận chế độ độc đảng đang gây nên những bất công khủng khiếp, không chỉ đối với nhân dân mà cả trong đảng:
 
“Trong điều kiện Đảng cầm quyền, nhiều đảng viên có chức, có quyền, có điều kiện nắm giữ tài sản, tiền bạc, cán bộ;… đất nước lại phát triển kinh tế thị trường, mở cửa hội nhập, nhiều người lo lắng về Đảng, về bản chất Đảng, lo lắng mặt trái của cơ chế thị trường, của hội nhập quốc tế tác động vào Đảng. Bây giờ trong Đảng cũng có sự phân hóa giàu – nghèo, có những người giàu lên rất nhanh, cuộc sống cách xa người lao động; liệu rồi người giàu có nghĩ giống người nghèo không? Nhà triết học cổ điển Đức L.Foiơ Băc đã từng nói rằng, người sống trong lâu đài nghĩ khác người ở trong nhà tranh. Mai kia Đảng này sẽ là đảng của ai? Có giữ được bản chất là đảng cách mạng của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động, của dân tộc không?”[8]
 
Ông Trọng cũng phải nhìn nhận, nay nhân dân rất oán ghét chế độ toàn trị XHCN:
 
 “Đứng trên tổng thể mà xét, hiện nay cái làm cho quần chúng oán thán nhất, gây mất lòng tin nhất, làm xói mòn bản chất Đảng đó chính là sự suy thoái cả về tư tưởng chính trị và đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên; cái này thật là nghiêm trọng.“ [9]
 
Cũng vào dịp kỉ niệm 69 năm đi theo con đường XHCN Chủ tịch nước Trương Tấn Sang đã phải mỉa mai dùng lời đàm tiếu của người dân về sự suy thoái đạo đức trong chính sách cơ cấu cán bộ của chế độ toàn trị là “Nhất hậu duệ, nhì tiền tệ, ba quan hệ, bốn trí tuệ…”[10]
 
***
 
Mặc dầu thừa nhận bất công với nhân dân, tha hóa đạo đức của những kẻ có quyền trong cơ chế XHCN, tức là công nhận kết quả hoàn toàn trái với mục tiêu sau 69 năm cai trị, nhưng nhóm cầm đầu chế độ toàn trị lại vẫn ép buộc nhân dân phải tiếp tục tuân theo. Mâu thuẫn đa chiều giữa lời nói và hành động của nhóm cầm đầu toàn trị càng thấy thêm rất rõ trong phong trào tuyên truyền với khẩu hiệu “45 năm thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh”đang phát động rầm rộ trong dịp 69 năm cướp chính quyền. Trong việc này họ làm như rất kính trọng ông Hồ, nhưng thực ra chỉ là mục tiêu chính trị nhằm phục vụ ý đồ riêng của họ. Họ muốn dùng hình ảnh ông Hồ để bảo vệ chế độ, bảo vệ quyền lực cho cá nhân và phe nhóm. Vì nếu kính trọng ông Hồ thực sự thì họ phải thực hiện trung thực những lời thề của ông với nhân dân được ghi trong Tuyên ngôn Độc lập là thực hiện đầy đủ và toàn vẹn Dân quyền và Nhân quyền như trong Tuyên bố của Cách Pháp 1789 và Tuyên ngôn Độc lập của Mĩ 1776 – như đã trình bày ở trên- , đồng thời họ cũng phải tôn trọng và thực hiện những ước nguyện cuối cùng liên quan tới cá nhân của người sáng sập đảng đã ghi trong Bản di chúc.
 
Hai việc liên quan trực tiếp tới cá nhân Hồ Chí Minh ông đã viết rõ trong Bản Di chúc là: 1. Ông mong được hỏa táng. 2. Khi đất nước thống nhất những người có trách nhiệm trong đảng phải thực hiện một phong trào chỉnh đốn đảng nghiêm túc và toàn diện để trong sạch hóa và phục vụ nhân dân. Cho tới nay sau 45 năm cả hai ước mơ cá nhân của Hồ Chí Minh đã hoàn toàn không được những người có trách nhiệm trong đảng qua nhiều thế hệ không thèm đếm xỉa tới, thế thì nay làm sao lại nói là “45 năm thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh”?
 
Về hai điểm liên quan tới ước nguyện cá nhân ông Hồ, Bộ chính trị thời Nguyễn Văn Linh đã giải thích:
 
“Sở dĩ trước đây chưa công bố đoạn Bác viết về yêu cầu hỏa tang là vì thể theo nguyện vọng và tình cảm của nhân dân, Bộ chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng (khóa III) thấy cần thiết phải giữ gìn lâu dài thi hài của Bác để sau này đồng bào cả nước, nhất là đồng bào miền Nam, bạn bè quốc tế có điều kiện tới viếng Bác..” [11]
 
Nhưng rõ ràng đây chỉ là cách mớm lời để phục vụ mục tiêu chính trị riêng cho Đảng của Bộ chính trị khi ấy, chứ tuyệt nhiên không phải ý muốn của Hồ Chí Minh. Tiếp theo bản Thông báo này còn nói thêm “Chính vì lẽ đó mà chúng ta đã xin phép Bác về điểm này được làm khác với lời Bác dặn”.[12] Khi ấy ông Hồ đã mất, cho nên đây không phải Bộ chính trị “xin phép” mà chính Bộ chính trị đã tự ý tẩy xóa Bản Di chúc của ông sao có lợi nhất cho Đảng mà thôi! Không những vậy, 45 năm sau các Bộ chính trị sau vẫn từ chối lời ước muốn cá nhân của người sáng lập chế độ. Họ yêu và kính Hồ Chí Minh như vậy sao? Đã thế Bộ chính trị hiện nay vẫn mở miệng dối trá với chính mình và hô hoán đánh lừa nhân dân “45 nămthực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh”!
 
Còn về điểm trong Di chúc Hồ Chí Minh yêu cầu chỉnh đốn Đảng sau khi thắng Mĩ, như “chỉnh đốn lại Đảng, chăm sóc đời sống của các tầng lớp nhân dân….”[13] Họ cũng đã tìm cách lấp liếm, tự ý hủy bỏ và giải thích rất tùy tiện: “Việc chưa công bố một số đoạn Bác viết thêm năm 1968 về những việc cần làm sau khi cuộc chống Mĩ, cứu nước giành được thắng lợi hoàn toàn, đó là vì năm 1969 khi Bác qua đời, cuộc kháng chiến chống Mĩ, cứu nước còn đang gay go ác liệt, chúng ta chưa giành được thắng lợi cuối cùng,. Nên việc công bố những đoạn nói trên lúc ấy là chưa thích hợp.”[14]
Nhưng từ sau chiến thắng1975 vẫn chưa có lần nào các Bộ chính trị sau này đã “chỉnh đốn lại Đảng” triệt để và toàn diện theo lời khuyên của ông Hồ.
 
Điều chính họ muốn nhắm tới trong phong trào “45 năm thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh” là câu sau trong Di chúc của ông Hồ: “Từ ngày có Đảng, nhân dân ta luôn luôn đi theo Đảng, rất trung thành với Đảng.”[15] Nghĩa là đảng chỉ đâu thì dân phải nhắm mắt tuân theo, như theo con đường Marx-Lenin và cúi đầu trước bá quyền Bắc kinh!
 
Nhưng ở đây họ đã cố tình quên một nguyên tắc cực kì quan trọng trong sinh hoạt của một quốc gia là, không một cá nhân nào dù đứng ở vị trị nào và không một tổ chức nào có quyền áp đặt đất nước và nhân dân theo những ước muốn riêng chủ quan và sai lầm. Cho nên cách làm hiện nay của những người cầm đầu chế độ toàn trị, đứng đầu là Nguyễn Phú Trọng, trong phong trào “45 năm thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh” đã lại cho thấy sự lẫn lộn, sự cố tình cầm nhầm quyền của toàn dân tộc với ước muốn riêng chủ quan của một cá nhân hay một tổ chức. Điều này chỉ có thể xẩy ra dưới chế độ phong kiến và chế độ toàn trị: Quyền lực phát ra từ nòng súng!
 
Thông thường, chính trị gia nào cũng muốn mớm lời cho lợi ích riêng của họ. Nhưng khác biệt căn bản ở điểm, trong các xã hội Dân chủ đa nguyên mọi chuyện đều phải minh bạch và hoạt động của các chính khách luôn luôn bị theo dõi thường xuyên của các cơ quan công quyền độc lập và của các tổ chức dân sự độc lập, nên họ không dám tẩy xóa hoặc xuyên tạc các văn kiện quan trọng. Còn trong chế độ toàn trị độc đảng thì các vua tập thể trong Bộ chính trị có quyền tuyệt đối, kể cả thủ tiêu đối thủ, nên họ hầu như toàn quyền tẩy xóa và thêu dệt các văn kiện thế nào có lợi nhất cho sự độc quyền của họ. Bắt dân phải “thực hiện Di chúc” Hồ Chí Minh, nhưng chính họ đã phủ nhận lời hứa của Hồ Chí Minh trong Tuyên ngôn Độc lập 2.9.1945, họ tự ý tẩy xóa và giải thích tùy tiện Di chúc của Hồ Chí Minh theo lợi ích riêng và cũng không thực hiện các ước nguyện cá nhân của Hồ Chí Minh, như đã trình bày.
 
Chẳng những thế, họ còn đang bắt nhân dân phải trung thành với một đảng vẫn đang mù quáng theo chủ nghĩa Marx-Lenin, mặc dầu chủ nghĩa này đã gây ra bao nhiêu tang tóc và thiệt hại cho nhân dân! Họ còn phủ nhận một thực tế là, gần ¼ thế kỉ Liên xô, cái nôi của Thế giới CS, đã tự sụp đổ và các nước CS Đông Âu đã tan rã. Chính Nguyễn Phú Trọng cũng phải thừa nhận, không biết bao giờ có thể thực hiện được chế độ CS ở VN! Một con đường sai lầm không chỉ ở VN mà cả trên toàn thế giới, nhưng nhóm cầm đầu toàn trị ở VN lại ngoan cố tiếp tục bắt cả dân tộc 90 triệu người cứ nhắm mắt phải theo. Thật là ý muốn ngông cuồng và điên rồ của nhóm cầm đầu hiện nay vẫn tin rằng quyền lực phát ra từ nòng súng!
 
***
Nói tóm lại, nhân dịp 69 năm cướp chính quyền áp đặt chế độ toàn trị, Bộ chính trị, đứng đầu là Nguyễn Phú Trọng, hãy nghiêm túc trả lời công khai với nhân dân ba câu hỏi:
 
- Có nhìn nhận trong Tuyên ngôn Độc lập 2.9.1945 chính Hồ Chí Minh đã thừa nhận các nguyên tắc Dân quyền và Nhân quyền, tức là nền tảng của chế độ Dân chủ đa nguyên ngày nay?
 
- Hay thừa nhận lời hứa trên của Hồ Chí Minh chỉ là treo đầu dê bán thịt chó?
 
- Chế độ toàn trị theo mô hình Marx-Lenin đã được áp đặt 69 năm ở VN, đang đẩy đất nước tụt hậu về kinh tế so với hầu hết các nước trong khu vực, nhân dân vẫn phải sống trong nghèo đói, lạc hậu và không được hưởng các quyền tự do dân chủ căn bản. Trong khi ấy những kẻ có quyền lực thì tham nhũng, đàn áp và tha hóa đạo đức. Chẳng những thế, chế độ toàn trị còn đang xô đẩy đất nước vào lệ thuộc bá quyền Bắc kinh!
 
Tình hình cực kì bi đát trong mọi mặt và cả nguy cơ bị lệ thuộc phương Bắc ai cũng biết, các Ủy viên Bộ chính trị còn biết rõ hơn. Vậy các người cầm đầu chế độ toàn trị hiện nay, đứng đầu là Nguyễn Phú Trọng, còn có quyền tiếp tục ôm lấy các ghế cao và ra lệnh bắt 90 triệu nhân dân cứ phải tiếp tục cúi đầu vâng lệnh độc đoán và mù quáng của các ông nữa chăng?
Ba câu hỏi cực kì quan trọng trên liên quan trực tiếp tới vấn đề căn bản là, quyền lực của ĐCS có còn chính đáng hay không?
 
Ở đây tính tự trọng và lòng thành thực vừa là thử thách vừa là thước đo cho toàn thể Bộ chính trị, đứng đầu là Nguyễn Phú Trọng. Nhân dân cả nước, kể cả những đảng viên tiến bộ, đang theo dõi và sẽ có thái độ cương quyết trước những việc làm của các ông!
2.9.2014
Âu Dương Thệ

Cải cách hay Đấu tố?

13/09/14 | Tác giả: 

Cải cách hay Đấu tố?

Một hình ảnh trong CCRĐ
Một hình ảnh trong CCRĐ
Thật khó để tìm ra chủ đích của nhà nước CSVN khi họ đem những hình ảnh, tài liệu về cuộc đấu tố, gọi là cải cách ruộng đất 53-56 ra triển lãm vào ngày 8-9-2114. Tuy nhiên, có nhiều dấu hiệu cho thấy, cuộc triển làm này không có chữ lương thiện.
Nó không có lương thiện không phải là vì nhà nước muốn đem những oan hồn các nạn nhân của cuộc cải cách ấy ra đấu tố thêm một lần nữa cho hả dạ, hoặc gây thêm lòng thù hận của dân chúng đối với thành phần này. Bởi vì, nếu có làm như thế, nhà nước cũng không thể tạo ra lòng căm thù của dân chúng đối với những nạn nhân đã chết. Trái lại, sự phẫn uất nếu có, sẽ đổ ngập lên đầu đảng và nhà nước CS. Lý do, xét trên cả hai diện. Sự giàu có của những người này gồm ít nẫu ruộng, mấy dàn trâu cày, nhà có người ăn kẻ ở thì đó cũng chỉ là những tài sản được vun đắp, tích lũy do nhiều đời để lại. Nó chẳng là gi nếu đem so sánh với cái giàu có, cực nhanh chóng của cán cộng. Chỉ trong vòng vài, ba chục năm làm cán, dù là một viên cán cấp thấp nhất ở phường, ở xã, thôn thì họ đã vơ vét được số tài sản, bao gồm đất đai nhà cửa, cơ sở kinh doanh đáng gía gấp cả trăm lần những viên phú hộ bị khép vào tội chết kia. Như thế, công bằng mà nói, những nhà phú hộ kia xem ra chưa đáng tội chết. Tội chết phải dành cho những kẻ khác. Kế đến, họ có độc ác, đánh đập gia nhân thì cũng chả thấm gì nếu đem so với cái tối độc ác và man rợ của Hồ chí Minh và các tầng lờp cán cộng hiện nay. Bởi vì khi người dân bị bắt vào đồn công an cộng sản thì còn khỏe mạnh. Nhưng sau vài ngày hỏi cung, người thì được báo là bị tự tử trong đồn. Lại có người khác được thân nhân đón về và đưa thẳng ra nghĩa địa!
Nó cũng thiếu lương thiện và đầy bất công. Bởi vì, khi nhà nước đem mái tranh vách đất của người bần cố nông ra so sánh với nhà cao cửa rộng, làm bằng gỗ lim lợp ngói của phú hộ cho mọi ngưòi xem, coi đó như là bằng chứng của sự bóc lột dã man sức lao động của bần nông do thành phân địa chủ thực hiện. Nhưng nhà nước lại không đem hình ảnh cái mái che nom thấy cả giời, cả trăng sao của ngườ dân oan, của người nông phu, của em bé, cụ già quanh năm sống nhờ vào đống rác thải bên đường để so sánh với hình ảnh của những ngôi biệt thự, dinh thự của các cấp quận ủy, huyện ủy viên trên toàn qưốc cho nhân dân chiêm ngưỡng, đánh gía xem sự bóc lột, trộm cướp của những quan cán này đã lên đến mức “ vinh quang” tột đỉnh hay chưa? Ở đây, tôi chỉ đan cử đến cấp quận, huyện trở xuống thôi, chứ không muốn đề nghị nhà nước đem hình ảnh những ngôi biệt thự, sơ đồ đất cát, rừng cao su, cơ sở kinh doanh của các quan cán từ cấp tình ủy viên trở lên đến trung ương, hay BCT ra mà so sánh nữa. Bởi vì sợ rằng, khi nhân dân nom thấy những dinh thự, của cải của ác quan cán thì họ hoảng loạn, vỡ mật, ngã lăn ra mà chết!
Rồi cuộc triển lãm cũng thiếu lương thiện đối với người dân (vì chỉ đánh nhân dân) và rất bất công với bác! Bất công vì bác đã lao nhọc, ròng rã không biết bao nhiêu đêm ngày, bao nhiêu tháng năm, quên ăn, quên… lấy vợ, mới viết ra được hai văn kiện làm nền cho cuộc đấu tố, gây ra cái chết cho 200 ngàn nhân mạng, tạo nên một chiến thắng long trời lở đất, mà nhà nước dấu nhẹm nó đi. Không hề đem nó ra cho dân chúng chiêm ngưỡng, để người dân có cơ hội thực tế đánh gía xem nó nhân đạo, nó tàn bạo, nó bất lương và vô đạo đến mức độ nào? Chẳng lẽ nhà nước lại không biết hai văn kiện này ư? Chẳng lẽ họ không biết, nếu không có hai văn kiện này thì làm gì có mùa đấu tố ở đây, làm gì có hàng quan cán như hôm nay? Hai văn kiện đó là:
1. Văn kiện thứ nhất. Đề án gởi Stalin xin tổ chức đấu tố và cải cách ruộng đất tại Việt Nam.
Sau tuần lễ vàng, lừa đảo lòng yêu nưóc của người dân, HCM vơ vét được 20 triệu đồng (tiền Đông Dương) và 370 ký lô Vàng. Sau đó một thời gian ngắn, HCM đã phải tháo chạy rời Hà Nội, trở lại vùng biên giới Trung Việt. Tại đây, do hồn thiêng Trung quốc thúc dục, HCM đã làm ra đề án này. HCM viết:” Xin gửi ngài chương trình cải cách ruộng đất của Đảng lao động Việt Nam. Chương trình hành động được lập bởi chính tôi dưới sự giúp đỡ của đồng chí Lưu Shao Shi, Văn Sha San.
Đề nghị ngài xem xét và cho chỉ dẫn. Gửi lời chào cộng sản. Hồ Chí Minh,31/10/1952”
2. Văn kiện thứ hai: Bản cáo trạng đã được tuyên đọc vào ngày khai mạc mùa đấu tố ở Đồng Bẩm , nhân vụ xét xử bà Nguyễn thị Năm ở Thái Nguyện, là lao tâm, khổ trí của Hồ chí Minh tạo ra. Nguyên bản như sau,
“ Địa chủ ác ghê
Thánh hiền dạy rằng: “Vi phú bất nhân”. Ai cũng biết rằng địa chủ thì ác: như bóc lột nhân dân, tô cao lãi nặng, chây lười thuế khoá – thế thôi. Nào ngờ có bọn địa chủ giết người không nháy mắt. Đây là một thí dụ:
Mụ địa chủ Cát-hanh-Long cùng hai đứa con và mấy tên lâu la đã:
- Giết chết 14 nông dân.
- Tra tấn đánh đập hằng chục nông dân, nay còn tàn tật.
- Làm chết 32 gia đình gồm có 200 người – năm 1944, chúng đưa 37 gia đình về đồn điền phá rừng khai ruộng cho chúng. Chúng bắt làm nhiều và cho ăn đói. Ít tháng sau, vì cực khổ quá, 32 gia đình đã chết hết, không còn một người.
- Chúng đã hãm chết hơn 30 nông dân – Năm 1945, chúng đưa 65 nông dân bị nạn đói ở Thái Bình về làm đồn điền. Cũng vì chúng cho ăn đói bắt làm nhiều. Ít hôm sau, hơn 30 người đã chết ở xóm Chùa Hang.
- Năm 1944-45, chúng đưa 20 trẻ em mồ côi về nuôi. Chúng bắt các em ở dưới hầm, cho ăn đói mặc rách, bắt làm quá sức lại đánh đập không ngớt. Chỉ mấy tháng, 15 em đã bỏ mạng.
Thế là ba mẹ con địa chủ Cát-hanh-Long, đã trực tiếp, gián tiếp giết ngót 260 đồng bào !
Còn những cảnh chúng tra tấn nông dân thiếu tô thiếu nợ, thì tàn nhẫn không kém gì thực dân Pháp. Thí dụ:
- Trời rét, chúng bắt nông dân cởi trần, rồi dội nước lạnh vào người. Hoặc bắt đội thùng nước lạnh có lỗ thủng, nước rỏ từng giọt vào đầu, vào vai, đau buốt tận óc tận ruột.
- Chúng trói chặt nông dân, treo lên xà nhà, kéo lên kéo xuống.
- Chúng đóng gióng trâu vào mồm nông dân, làm cho gẫy răng hộc máu. Bơm nước vào bụng, rồi giẫm lên bụng cho hộc nước ra.
- Chúng đổ nước cà, nước mắm vào mũi nông dân, làm cho nôn sặc lên.
- Chúng lấy nến đốt vào mình nông dân, làm cho cháy da bỏng thịt.
- Đó là chưa kể tội phản cách mạng của chúng. Trước kia mẹ con chúng đã thông đồng với Pháp và Nhật để bắt bớ cán bộ. Sau Cách mạng tháng Tám, chúng đã thông đồng với giặc Pháp và Việt gian bù nhìn để phá hoại kháng chiến.
Trong cuộc phát động quần chúng, đồng bào địa phương đã đưa đủ chứng cớ rõ ràng ra tố cáo. Mẹ con Cát-hanh-Long không thể chối cãi, đã thú nhận thật cả những tội ác hại nước hại dân. Thật là:
Viết không hết tội, dù chẻ hết tre rừng,
Rửa không sạch ác, dù tát cạn nước bể!
(21-7-1953)
C.B….” ( Hồ chí Minh)
Nhìn chung, hai văn kiện này mang 2 đặc tính khác nhau. Cái thứ nhất: Là tư tưởng thành kế hoạch khủng bố giết người của một tên nô lệ máu lạnh, thủ ác và đầy lòng thù hận, Y viết gởi cho một chủ quan độc ác, xin duyệt, phê chuẩn. Xem ra, tư tưởng và hành vi cũng như kế hoạch của Y không có bất cứ một lý do nào, dù nhỏ, để bào chữa, chạy tội. Bởi lẽ, phàm là nguời thì phải biết qúy trọng sinh mệnh của con người. Không thể vin, viện ra bất cứ một lý do gì để viết thư xin phép một kẻ ngoại nhân để giết hại đồng bào của mình. Trừ ra một trường hợp duy nhất, kẻ làm ra cái đề án ấy không phải là người Việt Nam.
Cái văn bản thứ hai. Sự tích tụ của dòng máu lạnh và ác độc trong văn kiện thứ nhất, nay đã đến lúc nở hoa. Hoa của nó là bản cáo trạng đẫm máu vô tiền khoáng hậu trong lịch sử. Hoa của nó là sự kết tinh là sự tổng hợp của tất cả những gian dối, bịa đặt và vu khống cộng lại. Nó đáng bị lên án. Bất hạnh thay, nó lại triển nở rực rỡ trong lòng đảng cộng sản. Nó trở thành kim chỉ nam, trở thành người hướng dẫn đầy sáng tạo để cho các đoàn đảng viên nhuẫn nhiễn và thi hành. Nó trở thành khung, sưòn cho mọi cuộc đâu tố. Dù ở bất cứ làng nào, xã thôn nào, huyện nào, tỉnh nào, mọi cuộc đấu đều phải rập khuôn theo đúng nội dung trong “địa chủ ác ghê” do Hồ chí Minh đề ra. Nó rập khuôn gian dối, bịa đặt, vu khống đến nỗi, tất cả đều như một. Theo đó, Nó không chỉ là một bản cáo trạng khởi đầu mùa đấu tố, đọc trước mặt nạn nhân Nguyễn thị Năm, nhưng còn là một văn kiện khai mở ra nền tảng luân lý và đạo đức của chế độ cộng sản. Một chế độ phi nhân, sống dựa vào gian dối và tạo ra gian dối.
A. Về hình thức.
Đây là một bản cáo trạng, tuy ngắn, nhưng xem ra đã trình bày rõ ràng tất cả những tội của địa chủ Nguyễn thị Năm. Tuy nhiên, khi đọc, không một người nào mà không rùng mình rợn tóc gáy vì cái ác độc lang sói trong lòng người viết ra nó. Xin nh8ác qua, bà Nguyễn thị Năm còn được gọi là Cát Hanh Long, có thể không được coi là một người phụ nữ yêu nước dười mắt những người CS. Nhưng đã từng bỏ của, bỏ sức ra bao che, nuôi ăn nhiều cán bộ Việt Minh và cộng sản như Phạm văn Đồng, Trường Chinh, Hoàng văn Hoan, Nguyễn duy Trinh, Võ Nguyên Giáp , Hoàng quốc Việt… Chỉ riêng Tuàn Lễ Vàng, bà đã bỏ ra hơn100 lạng vàng để giúp cho quỹ kháng chiến. Nếu bà ác độc như bản cáo trạng nêu ra thì liệu mạng sống của những ngưòi tôi vừa kể ra ở trên có còn đến ngày bà bị đấu tố hay không?
Khi viết về cuộc đấu tố và văn bản này, Trần Đình, một tên tuổi mà tôi cho rằng, ông là người đã đứng vững trên đôi chân nhân bản của minh đúng như lời người mẹ yêu qúy của ông từng nhắc nhở. Ông đã sống, đã làm việc giữa những hạng mục voi giấy, ngựa giấy, khéo mà có cả chó giấy nữa chạy vòng quanh. Nhưng ông không bị lớp voi giấy, ngựa giấy và chó giấy này làm cho quay quất, tít mù theo chúng. Trái lại, vẫn chững chạc làm người nhân bản, thể hiện một nhân cách, một tầm nhìn chững chạc. Trong Đèn Cù, ông đã ghi lại cái ngày khởi đầu ấy như sau:
“ Cải cách ruộng đất chính thức nổ pháo hiệu đầu tiên ở xã Dân Chủ, Đồng Bẩm, Thái Nguyên. Đối tượng Nguyễn thị Năm, tức Cát Hanh Long, nhân sỹ tên tuổi trong Hội Liên Hiệp Phụ Nữ cũng như Trung Ương mặt trận Liên Việt, người cùng thường họp long trọng với Hồ chí Minh, Tôn đức Thắng, Hoàng quốc Việt. Nay bà trở thành địa chủ phản động, cường hào ác gian lợi dung tiếng thân Sỹ để phá hoại cách mạng…., có nhiều nợ máu với bần cố nông……” trang 82). Trần Đình tiếp: “ Để có phát phát mở đầu cuộc cải cách ruộng đất, Trường Chinh chỉ thị báo nhân dân tường thuật vụ đấu Nguyễn thị Năm. Tôi nhận nhiệm vụ( viết tường thuật) vỉ Trường Chinh phân công” Trần Đình không tham dự, nên Chinh bảo ” Chi tiết thì khai thác Văn, người anh nuôi, cấp dưỡngt đi theo Trường Chinh, còn tội ác thì cứ theo tài liệu” … …”Sở dĩ báo chí không tham dự vì ngại Đồng Bẩm cách Hà Nội có vài chục cây số, Pháp có thể nhảy dù xuống đó. Cụ Hồ bịt râu đến dự một buổi và Trường Chinh thì đeo kính râm suốt:”( Đèn Cù 82)
Như thế là cả hai nhân vật này đã đến dự cuộc đấu. Đây là câu chuyện kể khác biệt với những bài viết của nhiều tác giả đã viết đến chuyện này trước đây. Tuy khác, nhưng tôi cho rằng bài viết của ông đủ khả tìn. Khả tín vì lòng nhân bản và sự mực thước của ông hơn là việc ông là người đã viết phóng sự gần như tận mắt về ngày hôm ấy. Riêng về việc hậu sự, tống tiễn bà Nguyễn thị Năm, Trần Đĩnh kể :
“Dăm bữa sau bài” phóng sự nghe kể lại” tôi xuống Đồng Bẩm, tình cờ gặp Tiêu Lang báo Cứu Quốc, trong đội cải cách về đây còn ở lại lo hậu sự. Tôi hỏi chuyện hắn, anh lẻ lưõi lắc đầu mãi rồi mới kể lại: “
-:”Sợ lắm, tội lắm, đừng có nói với ai , chết tớ. Khi du kích đến đưa bà ta đi, bà ta cảm thấy có gì nên cứ van lạy” Các anhlàm gì thì còn bảo em trước để em còn tụng kinh”… Mình được đội phân công ra Chùa Hang để mua áo quan, chỉ thị mua áo tồi nhất…. Mua áo quan được thì không cho bà ta vào lọt. Du kích mấy người bèn đặt bà ta nằm trên miệng cỗ áo rồi nhảy lên vữa giẫm vừa hô: “Chết còn ngoan cố này, ngoan cố nổi với các ông nông dân không này?”. Nghe xương kêu răng rắc mà tớ không dám chạy…. cuối cùng bà ta cũng lọt vào nằm vẹo vọ….” ! (Đèn Cù trang 84),
Thê là quá đủ, Trần Đĩnh đã kể lại chân tướng và hành tung của Hồ chí Minh và Trường Chinh trong vụ đấu tố này. Tuy nhiên, khi đến dự, kẻ phải dấu râu che mặt, người phải đeo kính râm! Sự hiện diện của Hồ Quang ở đấu trường cho thấy chính Y nắm vai trò chủ chốt trong cuộc đấu tố này. Hoặc ít nhất là một động lực lớn để kích động những kẻ bát nháo điên cuồng kia, vì sự có mặt của Hồ chủ tịch nên phải đấu cho long trời lở đất. Đấu cho đến khi địa chủ phải nhận tội chết mới thôi! Đấy, tư cách Hồ chí Minh là thế đấy. Đủ man rợ chưa nào? Nay thì câu chuyện đã rõ trắng đen rồi nhỉ? Chính Hồ Quang viết bản cáo trạng ngậm máu phun người, rồi đích thân Hồ chí Minh che mặt đến tham dự cuộc đấu. Trường Chinh cũng đến dự đấu ngưòi làm ơn cho mình. Hỏi còn có ai bảo Hồ chí Minh không muốn giết bà Năm nữa hay không?
Từ câu chuyện này, tôi nghĩ, những ai còn mơ tưởng về nhân vật máu lạnh này, đừng bao giờ gian dối quanh co lừa dối chính mình và bào chữa cho Y nữa. Thay vào đó là một cách nhìn trực diện vấn đề mà viết. Hơn thế, nay thì cái thân phận, cái lý lịch gốc Tàu của Hồ Quang đã dần ra ánh sáng. Tôi nghĩ, những người này, dù là lớn hay nhỏ, hãy tỉnh ngộ, quay về với đồng bào và đất nước của mình mà vạch trần ra cái tội ác của một kẻ mang dòng máu Hán, Nguyên, Minh, Thanh,…. đã lợi dụng thời cuộc, ẩn mình vào trong tập thể cộng sản dưới danh nghĩa Việt Nam để tận diệt cuộc sống yên lành của dân ta. Hơn là tiếp tục, dù ở trong hay ngoài, làm những ống đu đủ bu quanh cái cái xác vô hồn này để ruớc hoạ cho dân tộc mình.
B. Về Nội Dung
Tuy nhà nước gọi là “ cải cách ruông đất”, trong thực tế lại khác. Theo nghĩa, cải cách là có thay đổi. Có thê là thay đổi lớn nhưng không bao hàm ý nghĩa có sự chết. Trong khi đó, cáo trạng, đấu tố lại là một âm mưu đưa đến việc giết ngưòi, mà có thể là một số lượng lớn.
Với “địa chủ ác ghê” chắc chắn từ người viết cho đến người đọc, tất cả đều nhận ra rằng đây toàn là những lời gian trá, tự nặn ra để vu không cho một người đàn bà. Rồi ai cũng thấy, nếu bài viết này không phải là của Hồ chí Minh thì nó đã bị vất vào thùng phân lâu rồi. Nó không có cơ hội để “ xuất chiêu” tàn ác như thế. Nhưng nó là của Hồ chí Minh nên đã không bị vất vào thùng phân. Trái lại nó nở hoa. Thãnh tài sản trân qúy của nhà nước. Nó không chỉ nhắm vào một mình bà nguyễn thị Năm, nhưng là sách lược chung cho mùa đấu tố với chủ đích là triệt tiêu nền luân lý đạo hạnh của Việt Nam. Rồi thay vào đó là một nền luân lý đạo tặc của Cộng sản đặt căn bản trên dối trá và bạo tàn do Hồ chí Minh chủ sướng.
Thật vậy, nếu không có bài viết này, không có HCM chủ trương, không ai đám đưa cái tên của bà Nguyễn thị Năm vào bảng phong thần địa chủ ác gian rồi đem ra đấu tố. Bởi vì theo Trần Đình “ bà Nguyễn Thị Năm, tức Cát Hanh Long, nhân sĩ tên tuổi trong Trung ương Hội Liên Hiệp Phụ Nữ cũng như Trung ương Mặt trận Liên Việt, người thường cùng họp long trọng với Hồ Chí Minh, Tôn Đức Thắng, Hoàng Quốc Việt…” (trang 82). Hỏi, ngoài bài viết này ra, ai dám đụng đến bà? Như thế, nếu bảo bài viết này đã trở thành khuôn mẫu. Trở thành kim chi nam trong mọi tư tưởng, sinh hoạt và cuộc sống của người cộng sản không có gì là quá đáng. Trái lại, phải xác định, nó là lịch sử, trở thành lẽ sống của cộng sản mà từ đó, mọi đoàn đảng viên phải nhuần nhiền và thực hành.
Rồi ở một khía cạnh nào khác, bản cái trạng này cũng chỉ ra rằng: Bất cứ một người nào, thành phần nào, một khi đã bị cán cộng vu khống, bị vu oan là cường hào, là ác bá, là phản động thì đều không thoát cái án như bà Nguyễn thị Năm, Có lẽ chính ở cái điểm lờn nhất này mà chỉ trong vòng có 3 năm, 1953-1956, Hồ chí Minh đã chặt đầu, xữ từ, chốn sống đến 200 ngàn người Việt Nam? Sự gian dối và tàn bạo này đã bao phủ lên trên hầu hết mọi phần đất ở miền bắc. Để ở đó chỉ còn lại là một sự sợ hãi. Ở đó, con ngưòi biến thành những cái máy vô tri, tuyệt đối tuân thủ những mệnh lênh của cái mã tấu. Ở đó, những nhân phẩm dần dần bị triệt hạ và được thay thế bằng những hình nộm. Con đấu cha, vợ đấu chồng, anh chị em, họ hàng, làng xóm đấu lẫn nhau theo lệnh đảng. Đấu cho tuyệt tình người. Đấu cho tuỵệt nghĩa đồng bào.
“Đội dạy: “Đấu tranh với địc chủ thì phải có khí thế, chưa quen thì phải tập, chưa có ai xuất hiện để mà đấu thì phải chỉ vào cái cột nhà thay thế. Giơ tay, xỉa xói vào cái cột nhà:” Mày đã cưóp của tao, mày đã đốt nhà tao, mày đã đánh đập ta thật tàn bạo….” Tất cả phải được học tập nhuẫn nhuyễn đê khi ghặp “người thật” thì không lúng túng…” Học đến nỗi, một ngưòi phụ nữ đứng tuổi, rất thương người cha gìa chị chăm xóc hàng ngày. Chỉ hõi ông” “ông có biết tôi là ai không”. Người cha ngậm ngùi trước nhìn đứa con dứt ruột của mình và nói ”Thưa bà, con là người đẻ ra bà a!” ( Chứng từ của một Giám Mục) Hỡi oi, chế độ gì đây? Chế độ CS đấy. “Đạo đức” Hồ chí Minh là thế đấy.
C. Về thành quả.
Kết quả của cái cách ruộng đất sau bài phát động:” địa chủ ác ghê” của Hồ chí Minh là có khoảng 200 trăm ngàn ngưòi bị giết. Họ bị giết chết bằng đủ mọi cách khác nhau. Người bị chặt đầu, người bị bắn, người bị chôn sống, bị treo ngược lên sàn nhà và chết khô. Và có khoảng trên 2 triệu người là thân thích của của các nạn nhân đã bị giết, bị đày lên rừng thiếng nưóc độ. Họ đã rơi vào cuộc khủng hoảng toàn diện. Tài sản bị tịch thu và cá nhân họ bị đẩy ra bên ngoài cuộc sống của xã hội. Giai cấp bị đấu tố là thế. Giai cấp được đôn lên hàng lãnh đạo của đất nước thì thế nào?
Từ năm 1953-1957, có khoảng 810,000 hecta tuộng đất ở đồng bằng và trung du miền bắc đã được lấy lại và chia cho hơn hai triệu nông dân canh tác, làm chủ (Wikipedia). Tuy nhiên, niềm vui của họ không tầy gang. Quyền tư hữu sớm rời tay họ. Năm 1958, Ủy ban Trung Ương Đảng CS quyết định tập thể hóa các mục tiêu phát triển nông thôn. Hiến pháp VNDCCH năm 1959 hợp thức hóa chính sách đó. Xóa bỏ quyền sở hữu ruộng đất tư nhân và thay vào đó là quyền sở hữu tập thể. Đất đai tập trung vào tay Nhà Nước qua việc thành lập những hợp tác xã do nhà nước quản lý. Người dân dị dồn ép gia nhập hợp tác xã . Thế là lại tay trắng. Bần cố nông lại trở về bần cố nông. Lúc trước, bần nông đi cày thuê cuốc mưón, làm canh điền, tá điền cho phú hộ thì còn có míếng cơm manh áo mà ăn mà mặc. Lúc no có, lúc đói có, nhưng niềm vui sau một ngày đồng áng thì không bao giờ thiếu. Họ có được một giấc ngủ thật ngon sau một ngày làm vất vả,
Nay họ được khoác mỹ từ làm chủ đất nước, nhưng thực phận thì không bằng một tên nô lệ. Cuộc sống của họ thì trông cậy vào công điểm được tính là lao động chính hay lao động phụ của nhà nước. Nhìn trưóc nhìn sau, người nông dân vẫn còng lưng trên cánh đồng cạn với đôi mắt trắng. Ở đó. Ngưòi làm “chủ đất nước” thì kéo cày thay cho trâu bò. Phận cán bộ, đảng viên được định nghĩa là những đầy tờ của nhân dân thì tay cầm cái roi dài quất mạnh trên lưng, trên xác của những “ con bò chủ” đã kiệt sức không thể bước đi theo những luống cày. Cơm ăn thì bữa đói nhiều hơn bữa no. Quần áo thì mặc để cả bác ra ngoài cho nó mát. Đã thế, mỗi buổi tối phải đến những địa diễm tập trung để học tập. Khi bước vào học tập thì chả lúc nào mà cán bộ không nhắc nhở phương cách rình rập và vu khống lẫn nhau.. “ Bà con nông dân phải đề cao cảnh giác đấy. vì thằng địch nó ngồi ngay ở sau lưng ta. “ nghe thế chẳng ai không quay lại nhìn xem người ngồi đằng sau mình là ai, Lại có tiếng nhắc nhở thêm: “Bà con nhớ cảnh giác, địch nó ngồi ngay trước mặt ta đấy” Chưa hết run, thì cán lại bảo “ Bà con để ý nhá, nó ngồi ngay bênh cạnh ta đấy” ( CTCMGM)!. Thế là trước sau, tả hữu đều là thằng địch. Nghe xong khi đêm xuống, chỉ còn mỗi đôi mắt trắng nhìn lên trần nhà. Khéo mà bà vợ, hay ông chồng của mình cũng là thằng địch nốt!
Tóm lại, sau 60 năm được tạm yên nghỉ, nay những hình ảnh cuộc đấu tố năm xưa lại được nhà nước đem ra trưng bày, triển lãm. Chẳng một ai tin đó là một hảo ý, trái lại nó còn là một cuộc phỉ báng thô bỉ đến vong linh những người đã chết. Phía dân sự cho là thế. Tuy nhiên, phần nhà nước họ cũng có lý lẽ của họ. Tuy họ không mang cái văn bản” Địa chủ ác ghê “ ra trưng bày, nhưng mọi đoàn đảng viên đã được đảng và nhà nưóc CS nhắc nhở một cách kín đáo và tích cực rằng: CS chì có một con dường duy nhất để tồn tại là gian dối và tạo ra gian dối theo đúng tinh thần của bản văn mà HCM đã vạch ra. Đi ngược lại đường lối này là tự sát, là tự hủy diệt.
Liệu CS có thể thành công với tư duy gian dối và tạo ra gian dối trong thời đại thông tin đại chúng này hay không? Tôi không tin sự bịp bợm, bưng bít ấy rồi ra sẽ lại là một chiến thắng long trời lở đất khác cho họ. Trái lại cha ông ta đã từng dạy ” đưòng đi muôn lối , nói dối có cùng” Và nay cái cùng ấy đã đến chỗ tận cùng của cộng sản. Bởi vì người Việt Nam vì quê hương vì đồng bào của minh hôm nay đã thóat ra khỏi cái áo choàng sợ hãi. Họ đã và đang đi xây dựng lại niềm tin cho nhau. Rồi cùng nhau đi tìm Công Lý cho xã hội, đi tìm sự Thật cho đất nước. Đường dẫu dài, triệu bàn chân vẫn bước, không ai có thể cản trở được sức sống của dân tộc trong ngày mai. Không ai có thể cản trở được điều người dân muốn biết. Họ sẽ đập cho tan những tảng đá cản trên đường mà đi. Tuy thế, dân tộc Việt Nam không bao giờ khép kín vòng tay khi những đứa con hoang trở về. Trái lại, nếu họ tự đắm chìm trong gian dối thì cũng sẽ chết trong sự dối trá!
9-2014
©Bảo Giang