4.9.14

Kiến nghị cũa lực lượng vũ trang nhân dân


                                      KIẾN NGHỊ
của một số cựu sĩ quan Lực lượng vũ trang nhân dân
gửi Lãnh đạo Nhà nước và Chính phủ CHXHCN Việt Nam

Ngày 2 tháng 9 năm 2014

Kính gửi :
- Chủ tịch nước Trương Tấn Sang, Thống lĩnh các lực lượng vũ trang Nhân dân, Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng và An ninh
- Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng

Chúng tôi là những người lính trọn đời “Trung với Nước, Hiếu với Dân”, luôn trăn trở với nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc và Nhân dân. Đứng trước tình hình nghiêm trọng, đe dọa an ninh, chủ quyền và sự phát triển của Quốc gia, chúng tôi vô cùng lo lắng và thấy cần phải kiến nghị với Lãnh đạo Nhà nước một số điểm như sau.

1. Lực lượng vũ trang mang tên Nhân dân phải luôn luôn vì Nhân dân, nên không được huy động Quân đội và Công an vào bất cứ việc gì có hại cho Nhân dân. Sức mạnh của Lực lượng vũ trang chỉ có được khi dựa vào Nhân dân, nên không được đánh mất tín nhiệm đối với Nhân dân. Vì vậy, để bảo vệ uy tín của Quân đội là lực lượng có nhiệm vụ hiến định “quốc phòng”, tức là bảo vệ Tổ quốc trước ngoại xâm, cần chấm dứt ngay việc huy động Quân đội vào những sự vụ mang tính đối kháng với Nhân dân, như giải tỏa đất đai, ngăn chặn các cuộc biểu tình yêu nước ôn hòa… Để khôi phục uy tín của Công an, nhằm hoàn thành tốt nhiệm vụ hiến định “bảo vệ an ninh quốc gia và bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, đấu tranh phòng, chống tội phạm”, tuyệt đối không lạm dụng lực lượng Công an vào việc đàn áp những người dân vô tội, chỉ yêu cầu giải quyết quyền lợi hợp pháp của mình.

2. Các chiến sĩ Lực lượng vũ trang chỉ có thể yên tâm rèn luyện và sẵn sàng hy sinh xương máu để bảo vệ Tổ quốc khi tin tưởng rằng cống hiến của họ luôn được Nhà nước ghi nhận thỏa đáng và gia đình của họ sẽ được Nhà nước chăm sóc chu đáo. Việc cố tình phớt lờ cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới phía Bắc năm 1979 và mấy trận chiến bảo vệ biển đảo không chỉ phủ nhận lịch sử, xúc phạm đồng bào và chiến sĩ đã hy sinh xương máu vì Tổ quốc, mà còn ảnh hưởng nghiêm trọng tới tinh thần và quyết tâm chiến đấu của Lực lượng vũ trang. Đó là sai lầm không được phép tái phạm. Để khắc phục hậu quả, phải nhanh chóng giải quyết những cách cư xử không đúng đối với với thương binh và gia đình liệt sĩ. Đặc biệt, phải sớm khôi phục danh dự và quyền lợi đã bị lãng quên của các liệt sĩ và thương binh đã hy sinh xương máu trong chiến tranh biên giới phía bắc và ngoài biển đảo, gấp rút tu bổ các nghĩa trang liệt sĩ dọc biên giới phía Bắc đã bị bỏ bê hơn hai chục năm qua.

3. Lực lượng vũ trang cần được xác định rõ ràng và chính xác đối thủ, không thể mơ hồ biến thù thành bạn hoặc coi bạn là thù. Đối tượng tác chiến của Quân đội phải là những thế lực có thể đe dọa chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc trong hiện tại và tương lai, chứ không thể là những đối thủ đã thuộc về quá khứ. Đối tượng khống chế của Công an phải là những kẻ tội phạm và các hành vi vi phạm hiến pháp, pháp luật, dù ở trong hay ngoài bộ máy cầm quyền, chứ không thể là những người dân vô tội. Lịch sử đã chỉ ra rằng Nhân dân ta phải thường xuyên đề cao cảnh giác trước nguy cơ ngoại xâm từ nước láng giềng phương Bắc. Việc Trung Quốc hạ đặt giàn khoan HD 981 trên vùng đặc quyền kinh tế của của chúng ta, tuy nay đã tạm rút đi, nhưng vẫn cho thấy họ không hề từ bỏ quyết tâm bá chiếm Biển Đông. Lịch sử cũng cho thấy, sau chiến tranh thế giới thứ hai, nhiều nước cựu thù đã hợp tác với nhau rất hiệu quả và bền vững, ví dụ như mối quan hệ giữa CHLB Đức và ba nước Mỹ, Anh, Pháp, giữa Nhật Bản và Mỹ, giữa Việt Nam và hai nước Pháp, Nhật Bản. Do đó, không thể vì những quan niệm bảo thủ, giáo điều mà đánh mất các cơ hội hợp tác với các cường quốc tiên tiến văn minh, nhằm phát triển kinh tế, công nghệ, nâng cao sức mạnh quốc phòng và tăng cường sự ủng hộ quốc tế trong sự nghiệp bảo vệ đất nước.

4. Là người chủ và người bảo vệ đất nước, Nhân dân và lực lượng vũ trang phải được biết chính xác hoàn cảnh thực tế của Quốc gia. Vì vậy, Nhà nước phải báo cáo rõ ràng với Nhân dân về thực trạng quan hệ Việt-Trung và về những ký kết liên quan đến lãnh thổ trên biên giới, biển đảo và các hợp đồng kinh tế ảnh hưởng lớn đến an ninh và chủ quyền của Quốc gia. Về Hội nghị Thành Đô, có tin nói rằng Tân Hoa xã và Hoàn cầu Thời báo của Trung Quốc đã công bố nội dung thỏa thuận giữa hai bên, trong đó trích dẫn: “Việt Nam mong muốn sẵn sàng chấp nhận làm một khu vực tự trị thuộc chính quyền trung ương tại Bắc Kinh như Trung Quốc đã dành cho Nội Mông, Tây Tạng, Quảng Tây... Phía Trung Quốc đồng ý và chấp nhận đề nghị nói trên, và cho Việt Nam thời gian 30 năm (1990-2020) để Đảng Cộng sản Việt Nam giải quyết các bước tiến hành cần thiết cho việc gia nhập đại gia đình các dân tộc Trung Quốc”. Chúng tôi không biết thật giả thế nào, yêu cầu Chủ tịch và Thủ tướng cho chúng tôi và nhân dân biết rõ thỏa thuận tại Hội nghị Thành Đô năm 1990. Chuyến đi thăm Trung Quốc gần đây của đặc phái viên Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam đã thỏa thuận với phía Trung Quốc về ba nguyên tắc chỉ đạo phát triển quan hệ Việt-Trung mà nội dung chỉ nhắc lại những câu sáo ngữ, không nói gì tới thực trạng và các biện pháp chấm dứt các hành động ngang ngược của thế lực bành trướng Trung Quốc xâm phạm chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nước ta trong mưu đồ bá chiếm Biển Đông. Chưa biết bên trong còn có những thỏa thuận cụ thể gì, nhưng toàn dân và toàn quân yêu cầu lãnh đạo Đảng và Nhà nước có đối sách đúng đắn trước mưu đồ và hành vi xâm lược của thế lực bành trướng Trong Quốc, không thể chấp nhận thái độ thể hiện sự thần phục họ, và càng đòi hỏi phải công khai, minh bạch thực trạng quan hệ giữa hai bên.

Trên đây là mấy đòi hỏi cấp bách, nhằm khôi phục uy tín của Quân đội và Công an trong Nhân dân, đồng thời tăng cường sức chiến đấu của Lực lượng vũ trang, để có thể đáp ứng được những thách thức to lớn trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc.

DANH SÁCH NGƯỜI KÝ


1.    Lê Hữu Đức, Trung tướng – nguyên Cục trưởng Cục Tác chiến Bộ Tổng Tham Mưu.
2.    Trần Minh Đức, Thiếu tướng – nguyên Phó Tư lệnh về hậu cần Mặt trận Trị Thiên – Huế.
3.    Huỳnh Đắc Hương, Thiếu tướng – nguyên Tư lệnh kiêm Chính ủy Quân tình nguyện Việt Nam tại Lào. 
4.    Lê Duy Mật, Thiếu tướng – nguyên Tư lệnh Phó Tham mưu trưởng Quân khu 2.
5.    Bùi Văn Quỳ, Thiếu tướng – nguyên Phó Tư lệnh về chính trị bộ đội Tăng–Thiết giáp.
6.    Nguyễn Trọng Vĩnh, Thiếu tướng – nguyên Chính ủy Quân khu 4.
7.    Bùi Văn Bồng, Đại tá – nguyên Trưởng Đại diện báo Quân đội Nhân dân khu vực Đồng bằng sông Cửu Long.
8.    Phạm Quế Dương, Đại tá – nguyên Tổng Biên tập tạp chí Lịch sử Quân sự.
9.    Nguyễn Gia Định, Nghệ sĩ ưu tú Điện ảnh quân đội.
10.    Lê Hồng Hà – nguyên Chánh Văn phòng Bộ Công an, ủy viên Đảng đoàn Bộ Công an.
11.    Phạm Hiện, Đại tá – nguyên Chánh Văn phòng B 68 đoàn chuyên gia giúp Campuchia.
12.    Xuân Phương, Đại tá – nguyên chuyên viên Cục Nghiên cứu Tổng cục Chính trị.
13.    Nguyễn Đăng Quang, Đại tá – nguyên cán bộ thuộc Bộ Công an.
14.    Đào Xuân Sâm, Cựu chiến binh Hà Nội – nguyên chủ nhiệm khoa Quản lý kinh tế Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.
15.    Tạ Cao Sơn, Đại tá – nguyên Phó Tham mưu trưởng Quân khu 2.
16.    Đoàn Sự, Đại tá– nguyên Phó Cục trưởng Cục Xuất bản Tổng cục Chính trị.
17.    Lê Văn Trọng, Đại tá – nguyên Trưởng Ban lịch sử Cục Nghiên cứu Bộ Tổng Tham Mưu.
18.    Nguyễn Thế Trường, Đại tá – nguyên Tổng Biên tập báo Quân giải phóng Trung Trung bộ.
19.    Nguyễn Văn Tuyến, Đại tá cán bộ tiền khởi nghĩa – nguyên cán bộ Viện Lịch sử Quân sự.
20.    Nguyễn Huy Văn (tức Kim Sơn), Đại tá lão thành cách mạng – nguyên Phó Trưởng phòng Sở chỉ huy Cục Tác chiến Bộ Tổng Tham Mưu

Tuyên truyền theo phong cách ngậm ngùi rơi lệ



Tuyên truyền theo phong cách ngậm ngùi rơi lệ


tuyentruyen14.61. Một quan chức cao cấp của Ban Tuyên giáo T.Ư, ông Vũ Ngọc Hoàng, đã có một phát biểu gây ấn tượng mạnh [1] : “Cách đây bốn, năm mươi năm, VN và Hàn Quốc có trình độ phát triển tương đương. Sau mấy mươi năm, tôi rà lại tư liệu thì thấy Hàn Quốc hiện có khoảng 90.000 người sống tại VN và VN cũng có 90.000 người sống ở Hàn Quốc. Chỉ khác nhau ở chỗ hầu hết người Hàn Quốc tại VN làm ông chủ, làm quản lý, còn người VN ở Hàn Quốc thì chủ yếu làm ôsin. Nghe mà xót lòng”.
Các nhà tuyên giáo đã có những bước tiến dài đáng khâm phục trong phương pháp tuyên truyền. Đã xưa rồi sự hào sảng ta nhất định thắng giặc nhất định thua, thời phe ta ngày một lớn mạnh, thời tư bản giãy chết, thời “lũ đế quốc như loài dơi hốt hoảng, đêm tàn bay chập choạng dưới chân người”.
Tuyên giáo thời nay chuyển sang một phong cách mới mà mà tôi tạm gọi là thời ngậm ngùi rơi lệ.
Tôi cũng bày tỏ lòng ngưỡng mộ trước khả năng tiết chế tình cảm “xót lòng” của nhà tuyên giáo khi không thấy ông nói tiếp về những cuộc tấn công mạnh mẽ, toàn diện và liên tục về kinh tế và văn hóa Hàn lên đất nước xiết bao yêu dấu của chúng ta.
Đó là những cơn siêu bão công nghệ của tập đoàn Samsung, những trào lưu thời trang của xứ kim chi, sự thống trị của dòng phim Hàn trên các kênh truyền hình Việt. Đó là những chấn động của K-pop làm ngất ngây giới trẻ Việt. Nhìn những đám đông “mùa Xuân đất nước” chen lấn xô đẩy cuồng nhiệt trước một đại biểu âm nhạc xứ Hàn, lòng ái quốc của mỗi người dân Việt như bị xát muối.
2. Tuy nhiên điều đáng nói nhất ở đâylà phát biểu trên lại được dẫn ra từ từ hội thảo “45 năm làm theo di chúc Bác”. Theo ý của nhà tuyên giáo, thoạt đầu hai dân tộc “có trình độ tương đương”. Từ ngày Bác chúng ta nhẹ gót “đi theo cụ Các Mác, cụ Lê nin và các vị cách mạng đàn anh khác”, để lại cho toàn Đảng toàn dân bản di chúc vô giá. Bây giờ, sau 45 năm học tập và làm theo di chúc thiêng liêng thì xảy ra một nỗi nhục kép. Có 90 ngàn dân đen sang bên xứ kim chi làm ôsin. Bù lại, bên mình trải thảm đỏ rước 90 ngàn người bên họ sang làm ông chủ!
Ở đây, tất nhiên không thể đổ lỗi cho cái sự “trải qua chiến tranh” được. Dưới gầm trời này, nói với ai thì được chứ quyết không nói với Nam Hàn.
Trong bài nói của mình, cái phong cách ngậm ngùi rơi lệ của nhà tuyên giáo rất rõ. Toàn là những câu hỏi và những câu cảm thán! Cán bộ làm thế nào mà thanh niên không muốn vào Đảng? Ngày xưa gọi nhau là đồng chí thì thân thiết thiêng liêng, bây giờ cáu lên thì gọi nhau là đồng chí! Cần xem lại từ trung ương đến địa phương có gây mất đoàn kết không?
3. Sau ngày Bác đi xa, các thế hệ lãnh đạo đất nước, vị nào cũng là những học trò xuất sắc, những nhà cách mạng trung kiên, những tấm gương chói ngời suốt đời tận trung tận hiếu với đảng.
Chẳng như bên xứ Đại Hàn kia hầu như tổng thống nào cũng có chuyện này chuyện nọ [2].
Có vị như Park Chinh hee ăn cơm độn, sống đời sống thanh bạch. Ông cho xây một bồn chứa nước ngay trong phòng để tự múc nước tắm.
Có vị như Chung Doo hwan phải đứng trước quốc dân đồng bào xin được tha thứ vì vụ tàn sát Gwangju năm 1980. Sau đó, ông vào chùa Baekdamsa để tu và sám hối.
Có vị như Roh Moo hyun vì những tai tiếng tham nhũng đã lủi thủi về quê, trèo lên một ngọn núi rồi gieo mình xuống vực mà chết.
Có vị như Lee Myung Bak tuyên bố hiến tặng gần như toàn bộ gia sản của mình cho hoạt động từ thiện [3].
4. Quay lại cái sự đau xót và những câu hỏi để ngỏ của nhà tuyên giáo. Chúng ta tự hào có di chúc Bác anh minh, có Đảng luôn luôn vĩ đại mà sao dân bất an và khốn cùng như vậy? Câu trả lời xem chừng huyền ảo như chiếc lá diêu bông trong cánh đồng chiều của thi sĩ Hoàng Cầm. Tuy vậy, những khoản tiền để “tổ chức cuộc vận động” cùng với sự lên ngôi của vô số nhà lý thuyết suông chắc là những hiện thực sống động và khách quan không thể cưỡng lại được!