“Hoà Hợp Hoà Giải Dân Tộc” Lúc Này Vẫn Còn Là Trò Bịp Bợm
Nghịch Lý “Hoà Hợp Hoà Giải Dân Tộc”
Cụm từ “Hòa Hợp Hòa Giải Dân Tộc” nghe thì có vẻ “suôi tai”, nhưng thực tế, rất tế nhị và hiện còn nhiều nghịch lý chưa giải tỏa. Không phải cứ sau một thời gian dài, 30 hay 40 năm chẳng hạn, đương nhiên nước bùn sẽ trong vắt để người ta có thể vui vẻ nhập cuộc “ta về ta tắm ao ta” một cách vô thưởng vô phạt, vô điều kiện, như một cuộc sum vầy vui thú “mại-dzô-trăm-phần-trăm”, hay nhẹ dạ, chín bỏ làm mười cho xong việc, huề-cả-làng.
Trước hết, về mặt thuận tính, vấn đề “Hòa Hợp Dân Tộc” không thể có trước việc “Hòa Giải Dân Tộc”, nghĩa là phải “Hòa Giải Dân Tộc” bằng cách “hóagiải” hay giải quyết xong những vấn đề căn bản liên quan tới tình trạng chia rẽ, ly khai, phương hại dân tộc, mới có hy vọng đưa đến “Hòa Hợp Dân tộc”. Vậy trong tương lai, nếu còn dùng những từ ngữ này, xin ưu tiên hóa và tham luận “cụm từ” này thành hai nhịp: “Hòa Giải” trước, “Hòa Hợp Dân Tộc” sau. Nếu ghép chung thì phải là “Hòa Giải Hòa Hợp Dân Tộc”.
Nguồn Gốc thuật ngữ “Hòa Giải Hòa Hợp Dân Tộc”
Cụm từ ngược chiều “Hòa Hợp Hòa Giải Dân Tộc” hay thuận chiều “Hòa Giải Hòa Hợp Dân Tộc” đều bắt nguồn một phần nào từ tổ chức “Truth and Reconciliation Committee” [TRC, tạm dịch là Ủy Ban Sự Thật và Hoà Giải], được thực hiện vào năm 1995 tại Cape Town, căn cứ vào Đạo luật Xúc tiến Đoàn Kết và Hòa Giải Dân Tộc [National Unity and Reconciliation Act],[1] sau khi chế độ kỳ thị Apartheid đã bị bác bỏ tại Nam Phi. Mục đích của Hai phe thương thuyết [giữa Cựu Quyền Apartheid và các Tổ chức Giải phóng gồm có Nghị Hội Dân Tộc Phi Châu/African National Congress] là sớm thực hiện đoàn kết dân tộc bằng đường lối hoà giải, chú trọng đích thực phục hồi công lý [restorative justice][2] hơn là ra tay trừng phạt pháp định [punitive justice] theo đường lối tố tụng Nuremberg đối với các tội phạm Đức Quốc Xã.
African National Congress logo
Ủy Ban TRC gồm một số thân hào nhân sĩ trung trực như Tổng Giám Mục Desmond Tutu (chủ tịch Ủy Ban), Dr. Alex Boraine (Phó Chủ Tịch UB), Mary Burton, Luật sư Chris de Jager, Bongani Finca, Pumla Gobodo-Madikizela, Sisi Khampepe, Richard Lyster, Wynand Malan, Reverend Khoza Mgojo, Hlengiwe Mkhize, Dumisa Ntsebeza (Trưởng Khối Điều tra), Dr. Wendy Orr, Luật sư Denzil Potgieter, Mapule Ramashala, Dr. Faizel Randera, Yasmin Sooka and Glenda Wildschut.
Ủy Ban TRC phân nhiệm thành ba Tiểu Ban:
•
•
•
Ủy Ban TRC thi hành các biện pháp ôn hòa “phục hồi công lý” căn cứ vào việc [a] thu thập tài liệu và nhận cung khai về những vi phạm nhân quyền, [b] để quyết định giải pháp sửa sai, bồi hoàn trên căn bản thuần công lý — pháp lý công bình — [equity justice] như hoàn trả, bồi thường, hồi chức, bù đắp tương xứng mọi thiệt hại trong quá khứ giao tranh, [c] và chỉ trừng phạt những sai phạm quá đáng, bất khả miễn trách vì lạm quyền, lạm dụng. [d] Tất cả những quân, cán, chính đối tác đều được hưởng miễn trách hay ân xá [amnesty] nếu thi hành đúng mức nhiệm vụ giao phó, dù ở bất cứ phe nào.
Nhà Nước Cộng Sản Việt Nam có Thực Tâm và Khả Năng “Hòa Giải Hòa Hợp Dân Tộc” không?
Hơn 70 năm qua, từ lúc thành lập bán khai, rồi lộdiện, đảng phái và nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam không bao giờ tôn trọng nguyên tắc thực thi giải pháp “Hòa giải Hòa Hơp, ở bất cứ môi trường nào, từ liên hệ đồng minh chính trị tới cơ bản đối phó dân tộc, qua những giai đoạn sau đây:
•
•
•
•
•
•
•
•
•
Không Thể Hòa Giải Hòa Hợp Suông Hay Ngớ Ngẩn
Cần nhấn mạnh: cả hai hình thức “cầu hòa” này không thể giao hàng “suông”, mời mọc đãi môi, một cách trống rỗng, kiểu rẻ tiền “quên đi, xoá bài làm lại”. “Hòa Giải Hòa Hợp Dân Tộc” không thể thực hiện một cách dễ dàng như một cảnh ảo thuật, hú hoạ bất chiến tự nhiên thành, khi hai bên đối tác [nếu không muốn nói là hai “kẻ-thù”] vẫn còn màu cờ sắc áo rõ rệt, vẫn còn hăng say chào đón nhau với những khẩu hiệu chống đối kịch liệt, không đội trời chung. Về mặt “giao lưu văn hoá”, người cộng sản có nhiều ngôn ngữ miệt thị trắng trợn, cục mịch, ghê gớm khi nhắc tới không gian “ngụy” [sic] này.
Nhưng 38 năm trước, cứ nghe mà đừng tưởng bở: ngay buổi lễ tiếp thu Sài Gòn, Tướng Trần Văn Trà, Chủ tịch Ủy ban Quân quản, đã phát biểu trước mặt Tổng Thống chớp nhoáng Dương Văn Minh: “Trong cuộc chiến đấu lâu dài này không có ai là kẻ thắng, ai là kẻ bại. Toàn quân và toàn dân Việt Nam là người chiến thắng…” Rồi Đại tướng Võ Nguyên Giáp lần đầu tiên gặp bại tướng Nguyễn Hữu Có cũng đã cầm tay mà nói: “Chào mi, ta với mi lúc trước hai đứa hai chiến tuyến nhưng nay ta đã là hai anh em”.
Hoan hô nhị vị “hiền tướng” cộng sản gộc, và chỉ vài ngày vài tháng sau, đã khởi đầu bầy toả một không gian và một thời gian “đổi đời” khốn khổ, khốn nạn nhất cho “toàn quân và toàn dân” miền Nam, trong dòng lịch sử hiện đại. Hóa ra “Anh Em”, “toàn quân và toàn dân Việt Nam” chỉ là những xảo ngôn, dối trá, “nói-dối-như-vẹm”.[7]
Kể cả những ý nghĩ tạm gọi là sáng giá của ông Võ Văn Kiệt, “…ngày 30 tháng 4, có hàng triệu người vui, mà cũng có hàng triệu người buồn”, cũng chỉ có tính cách hiển nhiên nói lên một sự thật phũ phàng, kiểu “vérité de La Palice”,[8] hay sự-thật-bằng-thừa mà cả Dân Tộc Việt, những người-trong-cuộc, ai cũng biết suốt mấy chục năm qua, trước cả thời điểm tỉnh ngộ của vị cựu Thủ Tướng Cộng Sản này.
Còn câu nói của cựu đại sứ Cộng Sản Việt Nam tại Pháp Võ Văn Sung: “Lúc này nếu ai đó trong chúng ta dù từng đứng từ phía nào mà vẫn nuôi lòng thù hận, cản trở hòa hợp dân tộc thì sẽ dần trở nên lạc lõng và thật sự có lỗi với tương lai của chính con cháu mình” … lại có tính cách kẻ cả dạy đời, nhưng chỉ có thể áp dụng cho bên thắng-thế-nhờ-hận-thù. Thật vậy, chỉ kẻ chủ trương đấu tranh giai cấp, đấu tố địa chủ, đánh tư sản, hành hạ bỏ tù các nhà dân chủ đối kháng mới cần xếp dỡ hận thù, mới cần ăn năn sám hối. Không biết hai ông Võ Văn Kiệt và Võ Văn Sung-Paris có ý đồ nghĩ rằng những người phải nghe lời tuyên truyền suông này toàn là thứ “ngớ ngẩn”, loại con-nai-vàng-ngơ-ngác-cách-mạng-mùa-thu, hay chính quý ông cũng ngẩn ngơ theo kiểu đó.
Vài Nhận định bổ túc về Lời lẽ “ngoại giao” của Ông Nguyễn Thanh Sơn
Ngày 31 tháng 3 năm 2010, ông Nguyễn Thanh Sơn, thứ trưởng Bộ Ngoại giao Việt Nam [đặc trách Ủy Ban Nhà Nước về người Việt Nam ở nước ngoại], có gửi thư đến Washington, DC. đề nghị Dân Biểu Cao Quang Ánh dẫn tới gặp cộng đồng người Việt để hội thảo, nhằm xoá bỏ những “ngộ nhận và hiềm khích” …vì cộng đồng “còn thiếu thông tin đúng đắn về Việt Nam và vẫn còn mang tư tưởng hận thù cùng những lời nói, việc làm chống lại Nhà nước Việt Nam”.
Sau khi nhận được công-văn-ngoại-giao [không mấy sáng sủa, trình bày lem-nhem] dụ dỗ chính khách Hoa-Kỳ, Dân Biểu Cao Quang Ánh đã khước từ một cách khá rõ rệt[9] [dù trước đây, ông Dân Biểu Mỹ gốc Việt, khi về Nước, đã bị ông Thứ trưởng tân thời, sơ-mi sọc, cà-vạt đỏ, năng nổ ôm vai bá cổ, kiểu “ngoại-giao-không-mấy-ngoại-giao”]. Chúng tôi xin đóng góp thêm một số nhận định liên hệ tới những lời lẽ thô sơ của ông TTNG Nguyễn Thanh Sơn, như sau:
“Ngộ Nhận…”
•
Hơn 3 triệu Người Việt tỵ nạn cộng sản, đã từng đợt bỏ nhà bỏ xứ, liều lĩnh ra nước ngoài để thoát cái hiểm hoạ cộng sản, hiển nhiên không hề “ngộ nhận” gì cả, vì họ đã đích thân nếm “mùi vị” cộng sản, vừa chua cay, vừa tàn khốc, đến độ nguy hại tới tính mạng, tới ý nghĩa căn bản của cuộc sống. Họ không hề lầm lẫn, vì những kinh nghiệm khủng khiếp mà họ từng biết trong xã hội tù đày cộng sản vẫn theo đuổi họ bằng những hậu ứng, những vết thương sâu đậm. Hơn 3 triệu người này đều là nạn nhân, hay con cháu nạn nhân của một hay nhiều ngược đãi, vi phạm, phương hại trầm trọng đã xẩy ra từ những năm 1925 tới bây giờ, hơn ba phần tư thế kỷ.
• Hơn 3 triệu người này đều là tỵ nạn chính trị, hay nạn nhân kinh tế thường xuyên bị bóc lột, bỏ khổ, bỏ đói nơi quê hương bất lực, vô trách nhiệm, có lúc mang trạng thái của một “cha-ghẻ” ghê tởm, ác độc, ruồng bỏ con cái, phá vỡ gia thế, trắng trợn vô nhân đạo, bán đất, bán người. Cái nạn cộng sản phải khủng khiếp như thế nào mới đẩy người dân, từ nam chí bắc, bỏ chạy thoát thân, dù họ biết trước, sẽ có cả trăm ngàn người thất bại, trôi sông trôi biển, bỏ xác giữa rừng, giữa núi. Ai ngộ nhận? chắn chắn không phải là những tỵ nạn cộng sản rồi.
“Thiếu thông tin đúng đắn về Việt Nam”
• Hơn 3 triệu người Việt tỵ nạn chính trị, kinh tế, nay ở những mảnh đất tự do, có đầy đủ thông tin, tài liệu, sách báo cởi mở, đúng đắn, không bị kiểm duyệt, không bị đe doạ, bịt mắt, bịt tai, nên họ có rất nhiều cơ hội tìm hiểu mạch lạc, rõ rệt, đầy đủ tin tức về mọi việc xẩy ra trên khắp thế giới, kể cả cái không gian bưng bít, hoả mù của Nhà nước cộng sản Việt Nam. Người Việt Hải ngoại biết rõ từng tên cộng sản tham nhũng, cờ bạc, ăn bẩn, đúc cầu giả, giết người thật, bỏ tù thật, đổ phân thật, ngu xuẩn thật. Họ biết rõ nhà cửa vôi ve tuồng hề của từng tên cán bộ to, nhỏ. Họ biết rõ đời sống khốn đốn của dân chúng sinh tồn tạm bợ nơi vỉa hè, chốn ngoại ô, cuối làng xóm ngập lụt, ô uế, thiếu vệ sinh, nhiều mánh khoé gian lận, nhiều mafia xã hội đen, nhiều cán bộ công an đói khát, mỗi lúc khảo sát “đầu tiên” và “tiền đâu”.
• Hơn 3 triệu người Việt hải ngoại biết rõ đội ngũ lãnh tụ cộng sản, từ Bắc Bộ Phủ tới cấp tham mưu địa phương đều nhúng tay vào việc bán ranh giới, cầm đất Tây nguyên, chia đảo, bán rừng, bán người lao động viễn biên, bán dâu hầu xứ người, đến nỗi nhà lập pháp Hoa Kỳ[10] đã phải gọi các lãnh tụ cộng sản Việt Nam là “pimps”, là “ma-cô” thứ-thiệc.
• Về mặt văn hoá, lịch sử dân tộc, người Việt hải ngoại có căn bản điều nghiên, truyền bá khai tâm, duy trì và chuyển tiếp căn bản truyền thống dân tộc Việt một cách trân trọng, đúng đắn. Người làm văn học, viết sử hải ngoại có khả năng và trách nhiệm so sánh dữ kiện toàn bộ khi họ tự do đối chiếu với những nguồn gốc tài liệu chân chính trên khắp thế giới. Chỉ riêng trí-thức-cán-bộ cộng sản mới phải viết lại lịch sử, ngụy tạo tài liệu văn hoá để chữa chạy, bênh vực tư tưởng mác-xít mà họ và thầy trò họ ngoan cố be bờ: có “đảng, có ta”.[11]
• Nếu sám hối kịp và còn chút thiện chí cuối chiều, đội ngũ cộng sản nên ở nhà-ta đối thoại ngay với người dân trong nước, để bạch hoá hiện tình nguy ngập của đảng và của dân, bị vạ lây. Chính 80 triệu người dân trong nước mới cần tìm hiểu nhiều hơn, vì họ vẫn còn bị chế độ cộng sản bịt mồm, che mắt, bít tai, khoá họng. Chính người dân trong nước mới cần hiểu biết thêm, một cách rõ ràng, sáng tỏ, tử tế, trung thực [nếu có phép lạ]. Chứ tới nay, cả ngàn cơ sở báo chí, truyền hình truyền thông trong nước, chẳng qua cũng chỉ là những cái máy sao y bản chính của cơ sở tuyên huấn giáo điều cộng sản, chẳng ích bổ hơn gì, sau bao nhiêu năm toa rập. Dân trong nước vẫn mù mịt, khờ khạo, ngơ ngác. Kể cả những cán bộ cộng sản tép, còn lơ lửng vòng ngoài.
“Hiềm Khích… Tư Tưởng Hận Thù Cùng Những Lời Nói, Việc Làm Chống Lại Nhà Nước Việt Nam”
• Người Việt hải ngoại sống đời sống tự do, đầy đủ an sinh, trí tuệ. Gia đình yên ấm, con cái tử tế, thành đạt. Họ còn gìn giữ được truyền thống nhân bản, lễ độ gia giáo. Họ học hỏi thêm cách đối xử công bằng, lịch thiệp, ôn hoà, căn cứ vào quyền hạn và trách nhiệm công dân cởi mở, trọng pháp, trọng sinh. Người Việt Hải ngoại có kiến thức, có đức độ căn bản vì sống gần gũi với hoàn cảnh xã hội bình đẳng, thân thiện, đầy đủ cơ hội và phương tiện cải tiến, thực thi tốt lành.
• Vậy người Việt hải ngoại không sống trong cảnh huống “hiềm khích, hận thù” như trong những xã hội mánh mung, cướp giật lẽ sống khi còn bị cộng sản kiểm toả, giam hãm trong nghiệt ngã thiệt thòi, trong bí ẩn, gian lận, phũ phàng.
• Tuy bị Nhà nước cộng sản ruồng bỏ, hắt hủi đến độ phải ly khai, bỏ xứ, bỏ nước, thế mà đã biết bao nhiêu người Việt hải ngoại đã phải đi làm cực nhọc “ca” ngày, “ca” đêm để thêm tiền gửi về gia đình, anh em, họ hàng còn kẹt lại trong nước. Hằng năm, người Việt hải ngoại chuyển tiền tặng từ 7 tới 10 tỷ Mỹ kim về Việt Nam. Họ hy sinh như vậy, vì họ có tấm lòng, có đức độ. Họ không bắt buộc phải đóng góp như vậy, họ tự nguyện. Họ không bắt buộc phải yêu nước, yêu gia tộc, yêu xứ sở. Nhưng họ vẫn có những thiện chí đó vì họ vẫn là những con người tử tế, không thù hằn, không vị kỷ. Họ có tự do, có khả năng làm những công việc thiện nguyện đó. Họ cũng có tự do và khả năng chấm dứt, nếu họ thấy việc đóng góp này mất ý nghĩa căn bản, nếu họ biết chính quyền cộng sản đang lợi dụng.
• Và nếu đa số người Việt hải ngoại còn “hận thù, chống lại Nhà nước Việt Nam” là vì “Nhà nước” đó không xứng đáng với sự tin cậy, cảm tình của họ. Ngày nào Nhà nước Việt Nam còn cướp bóc, bỏ tù dân, còn bạc đãi tôn giáo, còn man khai lịch sử văn hoá, còn độc tôn, độc tác, còn sai quấy bán nước, bán dân thì bắt buộc người Việt hải ngoại có bổn phận phải cảnh cáo, chống đối. Căn cứ vào lẽ phải và luật pháp công bình. Căn cứ vào tình dân tộc. Căn cứ vào tình người.
• Ngày nào Nhà nước đó chưa bác bỏ Điều 4, Hiến pháp nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam;[12] ngày nào Nhà Nước đó chưa biết tới sức mạnh đa nguyên đa đảng trong hệ thống kinh bang tế thế, trị quốc bình thiên hạ, nhằm bảo trọng sinh tồn dân tộc; ngày nào Nhà nước đó chưa thật tâm cứu nước, hưng dân, chưa thực sự cải tiến toàn diện, ứng dụng luật pháp công bình; ngày nào Nhà nước đó vẫn còn ý đồ vôi ve đỏ cả mảnh đất di sản Việt Nam, và hăm he định nhuộm đồ nốt 3 triệu dân cư hải ngoại; và nhất là ngày nào Nhà nước đó vẫn còn là một ngụy thể cộng sản toàn trị, không đội trời chung với bất cứ ai, thì ngày đó, người Việt hải ngoại vẫn còn thấy “đối thoại” là vô ích và “hoà giải hoà hợp dân tộc” là âm mưu xảo trá, bất kham.
Ngày nào một chính thể chân chính, phân minh, thực tâm
• điều tra những vi phạm nhân quyền;
• xét xử công minh những vụ tham nhũng, lạm quyền, trọng tội bán nước;
• trả lại tự do, tài sản và danh dự cho dân oan và các nạn nhân lịch sử;
• hoàn trả an sinh công bằng, thuần công lý cho toàn dân, toàn quân;
• phục hồi nhân quyền và dân chủ tự quyết trên toàn cõi đất nước Việt Nam.
ngày đó 90 triệu người dân trong nước và 3 triệu người dân tại hải ngoại mới bớt hận, mới hoan hỷ chấp nhận và ủy thác thực hiện một giải pháp Hoà-Giải-Hoà-Hợp-Dân-Tộc chân thực, không lật lọng, không áp đảo hoang đường.
Toàn dân Việt Nam vẫn mong, vẫn đợi cuộc “chỉnh lý” hài-hoà-dân-tộc đó, nhưng nhất quyết không muốn bị lừa một lần nữa bởi các thủ đoạn chia chác hậu trường chính trị hay trò bịp bợm xảo trá của những tên giang hồ CS ba lá, vớt vét chợ chiều tới giờ thứ 25.
TS LS Lưu Nguyễn Đạt
nguồn:www.vietthuc.org
[1] Promotion of National Unity and Reconciliation Act, No. 34 of 1995.
[2] Restorative justice. Also: Facing The Truth With Bill Moyers, produced by Public Affairs Television, Inc., presented on PBS by Thirteen/WNET in New York.
[3] Thực ra Chủ tịch Mao Trạch Đông ở bên Tàu mới là người đầu tiện gọi trí thức là “cục cứt”. Hồ Chí Minh và đồng bọn lây tục ngữ theo.
[4] “Là để ỉa vào mặt kẻ cầm quyền”, Dương Thu Hương Trả lời Đinh Ngọc Ninh (Phần 2)
[5] Trước những năm 1954 trở lại, người làng « Kẻ Noi » chuyên nghề « đổ thùng phân » đặt dưới các nhà vệ sinh ngồi chồm chỗm tr ên lỗ, rất thông thường tại Hà Nội ngày xưa. Hình như bây giờ tại Việt Nam, dân chúng « văn minh hơn » thường xây lâu đài 4 hay 5 tầng, nhưng không hề có phòng vê sinh, vì còn công khai cung cấp vào việc «kinh doanh» cung cấp «bom phân» kiểu Hà-Lội [sic]. Phần thặng dư, đem bỏ sông nuôi cá tập thể. Những chi tiết này đều có thật, căn cứ vào hình ảnh Youtube v à tài liệu nhà Nước-Vô-sản.
[6] Xem bài «Tại sao phố cổ Hà Nội bị từ chối công nhận là di sản văn hóa thế giới? » đăng tại www.vietthuc.org.
[7] Nói ngon, nói ngọt, và nói dối như « cuội vẹm » [Việt-Minh]
[8] On cite souvent à titre d’exemple les paroles suivantes : “il mourut le vendredi / le dernier jour de son âge / s’il fût mort le samedi / il eut vécu davantage”. Depuis, on parle de vérité de La Palice lorsqu’une chose est tellement évidente qu’elle en est risible.
[9] «I received your letter requesting me to host a meeting with your delegation to clear up « misunderstandings » between the Vietnamese american community and the government of Vietnam. At this point, I must decline…” Anh Joseph Cao, Congress of the United States, House of Representatives, Washington, DC, 4/29/2010
[10] Đọc “Loretta Sanchez Says Vietnam’s Rulers Are Pimps” đăng tại www.vietthuc.org
[11] Hình ảnh pa no 3-2-2010, với câu: ”Công an Nhân dân chỉ biết còn Đảng, còn Minh”
[12] Điều 4, Hiến pháp nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992:
Đảng cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, theo chủ nghĩa Mác – Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội.
Mọi tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.
• Hơn 3 triệu người này đều là tỵ nạn chính trị, hay nạn nhân kinh tế thường xuyên bị bóc lột, bỏ khổ, bỏ đói nơi quê hương bất lực, vô trách nhiệm, có lúc mang trạng thái của một “cha-ghẻ” ghê tởm, ác độc, ruồng bỏ con cái, phá vỡ gia thế, trắng trợn vô nhân đạo, bán đất, bán người. Cái nạn cộng sản phải khủng khiếp như thế nào mới đẩy người dân, từ nam chí bắc, bỏ chạy thoát thân, dù họ biết trước, sẽ có cả trăm ngàn người thất bại, trôi sông trôi biển, bỏ xác giữa rừng, giữa núi. Ai ngộ nhận? chắn chắn không phải là những tỵ nạn cộng sản rồi.
“Thiếu thông tin đúng đắn về Việt Nam”
• Hơn 3 triệu người Việt tỵ nạn chính trị, kinh tế, nay ở những mảnh đất tự do, có đầy đủ thông tin, tài liệu, sách báo cởi mở, đúng đắn, không bị kiểm duyệt, không bị đe doạ, bịt mắt, bịt tai, nên họ có rất nhiều cơ hội tìm hiểu mạch lạc, rõ rệt, đầy đủ tin tức về mọi việc xẩy ra trên khắp thế giới, kể cả cái không gian bưng bít, hoả mù của Nhà nước cộng sản Việt Nam. Người Việt Hải ngoại biết rõ từng tên cộng sản tham nhũng, cờ bạc, ăn bẩn, đúc cầu giả, giết người thật, bỏ tù thật, đổ phân thật, ngu xuẩn thật. Họ biết rõ nhà cửa vôi ve tuồng hề của từng tên cán bộ to, nhỏ. Họ biết rõ đời sống khốn đốn của dân chúng sinh tồn tạm bợ nơi vỉa hè, chốn ngoại ô, cuối làng xóm ngập lụt, ô uế, thiếu vệ sinh, nhiều mánh khoé gian lận, nhiều mafia xã hội đen, nhiều cán bộ công an đói khát, mỗi lúc khảo sát “đầu tiên” và “tiền đâu”.
• Hơn 3 triệu người Việt hải ngoại biết rõ đội ngũ lãnh tụ cộng sản, từ Bắc Bộ Phủ tới cấp tham mưu địa phương đều nhúng tay vào việc bán ranh giới, cầm đất Tây nguyên, chia đảo, bán rừng, bán người lao động viễn biên, bán dâu hầu xứ người, đến nỗi nhà lập pháp Hoa Kỳ[10] đã phải gọi các lãnh tụ cộng sản Việt Nam là “pimps”, là “ma-cô” thứ-thiệc.
• Về mặt văn hoá, lịch sử dân tộc, người Việt hải ngoại có căn bản điều nghiên, truyền bá khai tâm, duy trì và chuyển tiếp căn bản truyền thống dân tộc Việt một cách trân trọng, đúng đắn. Người làm văn học, viết sử hải ngoại có khả năng và trách nhiệm so sánh dữ kiện toàn bộ khi họ tự do đối chiếu với những nguồn gốc tài liệu chân chính trên khắp thế giới. Chỉ riêng trí-thức-cán-bộ cộng sản mới phải viết lại lịch sử, ngụy tạo tài liệu văn hoá để chữa chạy, bênh vực tư tưởng mác-xít mà họ và thầy trò họ ngoan cố be bờ: có “đảng, có ta”.[11]
• Nếu sám hối kịp và còn chút thiện chí cuối chiều, đội ngũ cộng sản nên ở nhà-ta đối thoại ngay với người dân trong nước, để bạch hoá hiện tình nguy ngập của đảng và của dân, bị vạ lây. Chính 80 triệu người dân trong nước mới cần tìm hiểu nhiều hơn, vì họ vẫn còn bị chế độ cộng sản bịt mồm, che mắt, bít tai, khoá họng. Chính người dân trong nước mới cần hiểu biết thêm, một cách rõ ràng, sáng tỏ, tử tế, trung thực [nếu có phép lạ]. Chứ tới nay, cả ngàn cơ sở báo chí, truyền hình truyền thông trong nước, chẳng qua cũng chỉ là những cái máy sao y bản chính của cơ sở tuyên huấn giáo điều cộng sản, chẳng ích bổ hơn gì, sau bao nhiêu năm toa rập. Dân trong nước vẫn mù mịt, khờ khạo, ngơ ngác. Kể cả những cán bộ cộng sản tép, còn lơ lửng vòng ngoài.
“Hiềm Khích… Tư Tưởng Hận Thù Cùng Những Lời Nói, Việc Làm Chống Lại Nhà Nước Việt Nam”
• Người Việt hải ngoại sống đời sống tự do, đầy đủ an sinh, trí tuệ. Gia đình yên ấm, con cái tử tế, thành đạt. Họ còn gìn giữ được truyền thống nhân bản, lễ độ gia giáo. Họ học hỏi thêm cách đối xử công bằng, lịch thiệp, ôn hoà, căn cứ vào quyền hạn và trách nhiệm công dân cởi mở, trọng pháp, trọng sinh. Người Việt Hải ngoại có kiến thức, có đức độ căn bản vì sống gần gũi với hoàn cảnh xã hội bình đẳng, thân thiện, đầy đủ cơ hội và phương tiện cải tiến, thực thi tốt lành.
• Vậy người Việt hải ngoại không sống trong cảnh huống “hiềm khích, hận thù” như trong những xã hội mánh mung, cướp giật lẽ sống khi còn bị cộng sản kiểm toả, giam hãm trong nghiệt ngã thiệt thòi, trong bí ẩn, gian lận, phũ phàng.
• Tuy bị Nhà nước cộng sản ruồng bỏ, hắt hủi đến độ phải ly khai, bỏ xứ, bỏ nước, thế mà đã biết bao nhiêu người Việt hải ngoại đã phải đi làm cực nhọc “ca” ngày, “ca” đêm để thêm tiền gửi về gia đình, anh em, họ hàng còn kẹt lại trong nước. Hằng năm, người Việt hải ngoại chuyển tiền tặng từ 7 tới 10 tỷ Mỹ kim về Việt Nam. Họ hy sinh như vậy, vì họ có tấm lòng, có đức độ. Họ không bắt buộc phải đóng góp như vậy, họ tự nguyện. Họ không bắt buộc phải yêu nước, yêu gia tộc, yêu xứ sở. Nhưng họ vẫn có những thiện chí đó vì họ vẫn là những con người tử tế, không thù hằn, không vị kỷ. Họ có tự do, có khả năng làm những công việc thiện nguyện đó. Họ cũng có tự do và khả năng chấm dứt, nếu họ thấy việc đóng góp này mất ý nghĩa căn bản, nếu họ biết chính quyền cộng sản đang lợi dụng.
• Và nếu đa số người Việt hải ngoại còn “hận thù, chống lại Nhà nước Việt Nam” là vì “Nhà nước” đó không xứng đáng với sự tin cậy, cảm tình của họ. Ngày nào Nhà nước Việt Nam còn cướp bóc, bỏ tù dân, còn bạc đãi tôn giáo, còn man khai lịch sử văn hoá, còn độc tôn, độc tác, còn sai quấy bán nước, bán dân thì bắt buộc người Việt hải ngoại có bổn phận phải cảnh cáo, chống đối. Căn cứ vào lẽ phải và luật pháp công bình. Căn cứ vào tình dân tộc. Căn cứ vào tình người.
• Ngày nào Nhà nước đó chưa bác bỏ Điều 4, Hiến pháp nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam;[12] ngày nào Nhà Nước đó chưa biết tới sức mạnh đa nguyên đa đảng trong hệ thống kinh bang tế thế, trị quốc bình thiên hạ, nhằm bảo trọng sinh tồn dân tộc; ngày nào Nhà nước đó chưa thật tâm cứu nước, hưng dân, chưa thực sự cải tiến toàn diện, ứng dụng luật pháp công bình; ngày nào Nhà nước đó vẫn còn ý đồ vôi ve đỏ cả mảnh đất di sản Việt Nam, và hăm he định nhuộm đồ nốt 3 triệu dân cư hải ngoại; và nhất là ngày nào Nhà nước đó vẫn còn là một ngụy thể cộng sản toàn trị, không đội trời chung với bất cứ ai, thì ngày đó, người Việt hải ngoại vẫn còn thấy “đối thoại” là vô ích và “hoà giải hoà hợp dân tộc” là âm mưu xảo trá, bất kham.
Ngày nào một chính thể chân chính, phân minh, thực tâm
• điều tra những vi phạm nhân quyền;
• xét xử công minh những vụ tham nhũng, lạm quyền, trọng tội bán nước;
• trả lại tự do, tài sản và danh dự cho dân oan và các nạn nhân lịch sử;
• hoàn trả an sinh công bằng, thuần công lý cho toàn dân, toàn quân;
• phục hồi nhân quyền và dân chủ tự quyết trên toàn cõi đất nước Việt Nam.
ngày đó 90 triệu người dân trong nước và 3 triệu người dân tại hải ngoại mới bớt hận, mới hoan hỷ chấp nhận và ủy thác thực hiện một giải pháp Hoà-Giải-Hoà-Hợp-Dân-Tộc chân thực, không lật lọng, không áp đảo hoang đường.
Toàn dân Việt Nam vẫn mong, vẫn đợi cuộc “chỉnh lý” hài-hoà-dân-tộc đó, nhưng nhất quyết không muốn bị lừa một lần nữa bởi các thủ đoạn chia chác hậu trường chính trị hay trò bịp bợm xảo trá của những tên giang hồ CS ba lá, vớt vét chợ chiều tới giờ thứ 25.
TS LS Lưu Nguyễn Đạt
nguồn:www.vietthuc.org
[1] Promotion of National Unity and Reconciliation Act, No. 34 of 1995.
[2] Restorative justice. Also: Facing The Truth With Bill Moyers, produced by Public Affairs Television, Inc., presented on PBS by Thirteen/WNET in New York.
[3] Thực ra Chủ tịch Mao Trạch Đông ở bên Tàu mới là người đầu tiện gọi trí thức là “cục cứt”. Hồ Chí Minh và đồng bọn lây tục ngữ theo.
[4] “Là để ỉa vào mặt kẻ cầm quyền”, Dương Thu Hương Trả lời Đinh Ngọc Ninh (Phần 2)
[5] Trước những năm 1954 trở lại, người làng « Kẻ Noi » chuyên nghề « đổ thùng phân » đặt dưới các nhà vệ sinh ngồi chồm chỗm tr ên lỗ, rất thông thường tại Hà Nội ngày xưa. Hình như bây giờ tại Việt Nam, dân chúng « văn minh hơn » thường xây lâu đài 4 hay 5 tầng, nhưng không hề có phòng vê sinh, vì còn công khai cung cấp vào việc «kinh doanh» cung cấp «bom phân» kiểu Hà-Lội [sic]. Phần thặng dư, đem bỏ sông nuôi cá tập thể. Những chi tiết này đều có thật, căn cứ vào hình ảnh Youtube v à tài liệu nhà Nước-Vô-sản.
[6] Xem bài «Tại sao phố cổ Hà Nội bị từ chối công nhận là di sản văn hóa thế giới? » đăng tại www.vietthuc.org.
[7] Nói ngon, nói ngọt, và nói dối như « cuội vẹm » [Việt-Minh]
[8] On cite souvent à titre d’exemple les paroles suivantes : “il mourut le vendredi / le dernier jour de son âge / s’il fût mort le samedi / il eut vécu davantage”. Depuis, on parle de vérité de La Palice lorsqu’une chose est tellement évidente qu’elle en est risible.
[9] «I received your letter requesting me to host a meeting with your delegation to clear up « misunderstandings » between the Vietnamese american community and the government of Vietnam. At this point, I must decline…” Anh Joseph Cao, Congress of the United States, House of Representatives, Washington, DC, 4/29/2010
[10] Đọc “Loretta Sanchez Says Vietnam’s Rulers Are Pimps” đăng tại www.vietthuc.org
[11] Hình ảnh pa no 3-2-2010, với câu: ”Công an Nhân dân chỉ biết còn Đảng, còn Minh”
[12] Điều 4, Hiến pháp nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992:
Đảng cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, theo chủ nghĩa Mác – Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội.
Mọi tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.